daigai

Well-Known Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những
vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy cần làm sáng tỏ về
bản chất, nội dung cũng như những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống
quan điểm lý luận định hướng cho việc hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những tư tưởng, những học
thuyết về Nhà nước pháp quyền đã ra đời ở các nước Châu Âu và chúng đã trở
thành di sản quý báu của nền văn hóa phương Tây. Vấn đề được đặt ra đối với
chúng ta là: ở mức độ nào, bằng hình thức nào, qua con đường nào, những tư
tưởng và học thuyết về Nhà nước pháp quyền có thể vận dụng ở Việt Nam - một
đất nước có nền văn hiến lâu đời, nơi mà Nhà nước và pháp luật cũng đã có từ
ngàn xưa, nơi mà đạo đức, phong tục tập quán đóng vai trò rất quan trọng trong
việc điều tiết các quan hệ xã hội. Có thể nói rằng, việc hình thành, xây dựng và
phát triển Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở.Hiện nay, ở
Việt Nam, đã có những tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v…, cho việc
bắt đầu xây dựng một Nhà nước pháp quyền, nhưng quá trình đó không thể nóng
vội, mà nó là sự nghiệp lâu dài của nhiều thế hệ người Việt Nam. Chúng em đã
chọn đề tài: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ” để nghiên cứu



phần nào và muốn hiều rõ hơn về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.


I) Cơ sở lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền
1)

Nhà nước
a)

Bản chất và đặc trưng của nhà nước

Bản chất của bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp đều mang bản chất
của giai cấp thống trị xã hội.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
ra đời, đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhà nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa trước đây nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước kiểu mới về bản chất, khác hẳn với các kiểu nhà nước từng có
trong lịch sử. Bản chất bao trùm chi phối mọi lĩnh vực tổ chức và hoạt động của
đời sống nhà nước là tính nhân dân của nhà nước.
Điều 2 Hiếu pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện bằng những
đặc trưng sau:

- Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh cách mạng, trải
qua bao hy sinh gian khổ làm nên cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhân dân tự
mình lập nên nhà nước. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay
là sự tiếp nối sự nghiệp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là nhà nước do
Nhân dân mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí thức, tự mình định đoạt
quyền lực nhà nước.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân
tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam là vấn đề có truyền thống lâu dài, là
nguồn gốc sức mạnh của nhà nước. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại được tăng cường
và nâng cao nhờ khả năng kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và
tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “ Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng
Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát
huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực
hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát
huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp
quyền
Dân chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội không chỉ là nhu cầu bức thiết của
thời đại mà còn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc, nảy sinh từ bản chất dân chủ của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Dân chủ bao giờ cũng gắn với pháp luật. Đó là bản chất của nhà nước pháp
quyền. Vì vậy, toàn bộ cơ quan nhà nước từ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp
đều phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, bằng pháp luật. Nhà nước ban
hành pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng nhà nước và cơ quan nhà
nước phải đặt mình dưới pháp luật. Cơ quan nhà nước “chỉ được làm những điều
pháp luật cho phép”; bảo đảm và phát triển quyền tự do dân chủ của nhân dân, còn
nhân dân “được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”.
b)

Chức năng và vai trò kinh tế của nhà nước

- Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội: Chức năng
thống trị chính trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính
của một giai cấp nhằm bảo vệ thống trị giai cấp đó đối với toàn xã hội, bắt nguồn
từ lý do ra đời của nhà nước.
- Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thể hiện sự quản lý
những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, của cộng đồng dân cư nằm dưới sự
quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng trên thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất , chức
năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị.
+ Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn
khổ lợi ích của mình.
+ Chức năng giai cấp chỉ có thể thực hiện được thông qua chức năng xã hội.
+ Xã hội không còn giai cấp thì chức năng xã hội sẽ do xã hội tự đảm nhận.
+ Chức năng đối nội của nhà nước: Nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính
trị và những trật tự khác hiện có theo lợi ích của giai cấp thống trị( thực hiện bằng
pháp luật và bằng sựu cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra nhà nước còn


dùng nhiều hình thức khác: bộ máy thông tin, tuyên truyền, các cơ quan văn hóa,

giáo dục...) để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước: Nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia
và thực hiện cac mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nước khác vì
lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích của quốc gia.
Vai trò kinh tế của nhà nước.
-

Một là: Nhà nước điều chỉnh các quan hệ kinh tế, làm hạn chế khả năng

-

xẩy ra khủng hoảng.
Hai là: Phải có các khu vực kinh tế công cộng, không vì mục đích lợi

-

nhuận.
Ba là: Nhà nước tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho phát triển kinh
tế.

2)

Nhà nước pháp quyền
a)

Khái niệm nhà nước pháp quyền

Nhà nước pháp quyền là một phạm trù mang tính lịch sử, xuất hiện cùng
Nhà nước và phát triển theo lịch sử tri thức nhân loại.
Tư tưởng về pháp quyền hay nhà nước pháp quyền đã bắt đầu xuất hiện

ngay từ thời cổ đại, khi xã hội vẫn còn nhiều bất công, quyền tự nhiên vốn có của
con người bị xâm phạm bởi chính nhà nước - thiết chế quyền lực công của xã hội.
Trước thực trạng ấy, các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại mong muốn tìm kiếm một
cách hiệu quả để bảo về quyền tự nhiên vốn có, phẩm giá của con người.
Từ đó, tư tưởng về nhà nước pháp quyền ra đời, mà thay mặt tiêu biểu là các nhà tư
tưởng Solon, Pitagore, Heraclit, Socrate, Platon, Aristote, Ciceron,... Tuy nhiên,
thời điểm đó các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại chưa thấy được nguồn gốc của những


bất công xã hội cũng như chưa tìm ra được giải pháp hữu hiệu để xây dựng nhà
nước pháp quyền trong thực tiễn.
Đến thời kỳ trung cổ, sự câu kết giữa thần quyền và thế quyền tạo ra màn đêm
bao phủ xã hội loài người, khiến cho các tư tưởng tiến bộ của nhân loại trong đó có
tư tưởng về nhà nước pháp quyền bị chôn vùi. Tuy nhiên, niềm tin pháp luật có thể
mang đến cho con người tự do và bảo vệ quyền lợi tự nhiên vốn có vẫn luôn tồn
tại. Thánh Saint Thomas D’Aquin (1225-1274) cho rằng trật tự pháp lý đem đến
cho con người cái thuộc về họ và làm cho họ có thể đạt đến sự dồi dào về vật chất,
tinh thần, xã hội công dân sẽ thay thế xã hội thần dân.
Vào thế kỷ XVII, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã mang lại những giá trị to
lớn cho nhân loại trong bối cảnh lúc bấy giờ, đưa nhân loại thoát khỏi “đêm trường
trung cổ”, tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học tự nhiên
và xã hội, đây cũng là thời kỳ mà tư tưởng nhà nước pháp quyền được tiếp tục
nghiên cứu và phát triển thành lý luận bởi các nhà tư tưởng phương Tây mà đại
diện là I. Kant (1724-1804), Hegel (1770-1831), Mohn và Valker, Stein…
Có thể hiểu, khái niệm Nhà nước pháp quyền đề cập đến cách tổ chức,
xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước nói chung thông qua pháp luật, như hiến
pháp, luật và các văn bản pháp quy khác. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là
nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật
được tôn trọng, các tư tưởng và học thuyết chính trị, tôn giáo,... của bất cứ tổ chức
hay cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều

chỉnh của pháp luật. Như vậy, cách tổ chức xây dựng và vận hành của nhà
nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ
thống quan điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hay điều kiện cụ


thể của mỗi nước chứ không có mô hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng
nhất.
Đặc trưng của nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa là
bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm
bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của
mình thông qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với
toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp
pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải
mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng
nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công
bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi
lĩnh vực của Nhà nước và xã hội. Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp
quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự
tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện
quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa cá nhân
và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình
đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc:
Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân
được làm tất cả trừ những điều luật cấm.


Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
phù hợp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp
luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn
là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật
luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và cách
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác nhau, nhưng
đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến
pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ
thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước
pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân
chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt
động của Nhà nước và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các
mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội. Trong mối quan hệ giữa
Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước được xác
định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị trường, theo hướng Nhà
nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường, thông qua thị
trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các mặt tiêu
cực của thị trường. Trong mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp
để quản lý xã hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ (tự quản) của các
cấu trúc xã hội (các tổ chức xã hội, các cộng đồng xã hội). Mối quan hệ giữa Nhà
nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy định và chi phối lẫn nhau. Nhà
nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế
và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật.


a)

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận cách tổ chức, xây
dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Pháp luật trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực của nhà nước thuộc
về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ,...)
và chỉ có nhân dân trực tiếp hay thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy
nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hay tổ chức
ra Quốc hội và Chỉnh phủ nhiệm kỳ mới. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật và pháp
luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc phân chia
quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó,
có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
nhằm đảm bảo cho quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả
cao nhất.
Về hệ thống pháp luật, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công
nhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và
thủ tục nhất định.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
II) Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền của ở Việt Nam

1. Quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam


a) Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Vấn đề Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trong
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là nội dung trọng yếu, có nhiều điểm được bổ
sung, hoàn thiện mới. Ở nước ta, tư tưởng về một nhà nước pháp quyền đã manh
nha xuất hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh ngay từ khi Người đi tìm đường cứu

nước.
Từ Đại hội VII đến nay, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
luôn được Đảng ta quan tâm, chú trọng hoàn thiện, bổ sung về mặt lý luận và từng
bước được hiện thực hóa trong thực tiễn xây dựng đất nước. Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được bổ sung, phát triển,
hoàn thiện và được diễn đạt khá rõ ràng so với các kỳ đại hội trước. Xuyên suốt
thời kỳ đổi mới, tư tưởng của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là
nhất quán và tuân thủ như một nguyên tắc, tính quy luật của quá trình phát triển đất
nước. Khi tiếp cận quan điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là hướng tới làm rõ bản chất cách mạng, khoa
học và những bổ sung, phát triển mới, đồng thời phải cụ thể hóa vào giáo dục,
tuyên truyền để nó thâm nhập sâu rộng vào đời sống tinh thần, hoạt động thực tiễn
của quần chúng nhân dân.
Trước hết, cần nhận thức đầy đủ những nội dung thuộc bản chất khoa học,
cách mạng các quan điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng. Tư tưởng về Đảng là một bộ phận của hệ thống chính
trị và là lực lượng lãnh đạo Nhà nước luôn nhất quán, được thực hiện một cách
trung thành, xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Tư tưởng ấy
trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là sự tiếp nối, đồng thời được bổ sung, phát


triển mới phù hợp với thực tiễn đất nước và quốc tế hiện nay. Nghị quyết Đại hội
XII chỉ rõ: “Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền XHCN được bổ sung,
hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản”. Khái quát trên tiếp tục khẳng định một
nguyên tắc về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, đồng thời thể hiện sâu sắc nhất bản chất cách mạng, khoa học của quan điểm
này. Nó phản ánh đúng thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
đã có những chuyển biến tích cực và mạnh mẽ.
Nội dung Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có tính toàn diện,
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Nghiên cứu sự hài lòng của người dân về nhà ở tái định cư tại các dự án xây dựng lại nhà chung cư cũ Luận văn Kinh tế 0
D Xây dựng ứng dụng tìm kiếm và quản lý nhà trọ online trên điện thoại Công nghệ thông tin 0
D Xây dựng hệ thống quản lý an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn ISO 22000:2005 cho dây chuyền sản xuất sữa tươi tiệt trùng của nhà máy sữa Nông Lâm Thủy sản 0
D Quản lý các dự án đầu tư xây dựng tại ngân hàng nhà nước Việt Nam Kiến trúc, xây dựng 1
A Xây dựng quy trình lựa chọn và quản lý nhà cung cấp tại Công ty TNHH ScanCom Việt Nam Luận văn Kinh tế 1
D Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Môn đại cương 0
D Thuyết minh dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất bột cá Kiến trúc, xây dựng 0
D Xây dựng văn hóa nhà trường gắn với văn hóa học đường trong quản lý giáo dục Luận văn Sư phạm 0
D Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Môn đại cương 0
D Vận dụng quan điểm kiểm soát quyền lực nhà nước của Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước pháp quyền Môn đại cương 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top