rica17

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
– CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT VÀ CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC.
1
1. Chuẩn mực pháp luật
1
1.1. Khái niệm
1
1.2. Một số đặc điểm của chuẩn mực pháp luật
1
2. Chuẩn mực đạo đức
3
2.1. Khái niệm
3
2.2. Một số đặc điểm của chuẩn mực đạo đức
3
II – MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT VÀ CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC.
4

1. Điểm giống nhau giữa đạo đức và pháp luật
4
2. Điểm khác nhau giữa đạo đức và pháp luật.
5
3. Mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức
6
KẾT LUẬN
10
LỜI MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Pháp luật không
chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi
cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp
phần bồi đắp nên những giá trị mới. Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau trong xã hội nói chung, và trong từng khía cạnh cụ thể nói riêng. Các khía
1
cạnh đó là gì? Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em xin làm rõ đề tài
“Phân tích mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức”.
NỘI DUNG
I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT VÀ CHUẨN MỰC
ĐẠO ĐỨC.
1. Chuẩn mực pháp luật
1.1. Khái niệm
Chuẩn mực pháp luật hay pháp luật dưới góc độ luật học được hiểu như là tổng
thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hay thừa nhận,
thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các
biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế.
1.2. Một số đặc điểm của chuẩn mực pháp luật
- Thứ nhất, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung
Trong bất cứ xã hội nào, để xã hội tồn tại và pháp triển thì các quan hệ giữa
người với người- các quan hệ xã hội, phải tuân theo các quy tắc chung nhất định.
Những quy tắc chung ấy tồn tại trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã
hội: trong xã hội, phân phối, trao đổi, tiêu dùng, trong sinh hoạt chính trị xã hội,
nghệ thuật, tôn giáo, gia đình,… người ta gọi đó là các quy tắc xử sự chung.
Các quy tắc này chỉ cách xử sự mà người ta phải tuân theo những trường hợp
nhất định, chính là việc thể chế hóa các quy định mang tính điển hình, hướng dẫn
mọi người noi theo.
- Thứ hai, pháp luật do nhà nước ban hành hay thừa nhận
Từ những thực trạng xấu phát sinh trong xã hội và nhằm đảm bảo thực thi tính
quyền lực, ý chí của giai cấp thống trị mà nhà nước đã soạn thảo, ban hành những
diều luật hướng cho các quan hệ hoạt động trong vòng trật tự, phát triển bền vững.

2
Pháp luật được ban hành ra những quy định mà trong đó các cá nhân, tổ chức có
những giới hạn nhất định, những hành vi được phép làm, không được phép làm
cũng như các quyền và nghĩa vụ cụ thể.
Nhà nước cũng thừa nhận có hệ thống từ các phong tục, điều lệ từ những tổ chức
xã hội,… mà nó phù hợp với những điều kiện xã hội mới vào hệ thống pháp luật
chung, được ban bố dưới các hình thức văn bản pháp luật để toàn xã hội thực hiện
và là bắt buộc với mọi cá nhân tổ chức.
- Thứ ba, pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
Bằng những biện pháp thực thi quyền lực của nhà nước đã ban hành thành những
hệ thống luật với mục đích là điều chỉnh các hành vi sai lệch, trái với chuẩn mực
đạo đức xã hội nhằm tạo lập xã hội pháp triển lành mạnh, các mối quan hệ trong xã
hội có điều kiện liên kết pháp triển tạo nên một môi trường xã hội phát triển, hòa
bình trong vòng trật tự xã hội có pháp luật. Nếu những hành vi, quan hệ cá nhân tổ
chức nào vi phạm thì nhà nước sẽ dùng chính pháp luật là cách, là công cụ
cưỡng chế những vi phạm đó.
- Thứ tư, pháp luật được nhà nước đảm bảo thực bằng tính cưỡng chế
Tính cưỡng chế thể hiện ở việc nhà nước có thể dùng nhiều biện pháp để bắt
buộc mọi người phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật. Đây cũng là tính
cơ bản, dựa trên quyền lực nhà nước làm cho pháp luật có sức mạnh và hiệu quả.
Nhà nước đảm bảo tính cưỡng chế của pháp luật bằng những biện pháp: thông tin
tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng; hay các biện pháp cưỡng
chế do sức mạnh của nhà nước thi hành cụ thể trong các quy phạm pháp luật đều có
loại nhiều chế tài nhất định trong từng trường hợp tương ứng với các hành vi vi
phạm pháp luật.
2. Chuẩn mực đạo đức
2.1. Khái niệm
3
Chuẩn mực đạo đức là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối với hành vi xã
hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan niệm chung về công
bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm và
những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội.
Ví dụ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín…
2.2. Một số đặc điểm của chuẩn mực đạo đức
- Thứ nhất, tính bất thành văn
Chuẩn mực đạo đức là một loại chuẩn mực xã hội bất thành văn. Tức là nó
không được ghi chép thành văn bản cụ thể mà tồn tại dưới hình thức là những bài
học luân lý, phép đối nhân xử thế giữa các cá nhân với nhau trong xã hội. Chuẩn
mực đạo đức thường được củng cố, giữ gìn và phát huy vai trò và hiệu lực của nó
thông qua con đường giáo dục truyền miệng, thông qua quá trình xã hội hóa cá
nhân; được củng cố, tiếp thu và lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Trong xã hội, chuẩn mực đạo đức hình thành rất sớm trong xã hội
nguyên thủy khi mà hiện tượng nhà nước chưa xuất hiện.
- Thứ hai, tính giai cấp
Chuẩn mực đạo đức mang tính giai cấp, thể hiện ở chỗ, nó được sinh ra nhằm để
củng cố, bảo vệ hay phục vụ cho các nhu cầu, lợi ích vật chất, tinh thần của giai cấp
này hay giai cấp khác trong xã hội.
II – MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT VÀ CHUẨN MỰC
ĐẠO ĐỨC.
1. Điểm giống nhau giữa đạo đức và pháp luật
- Pháp luật và đạo đức đều gồm những quy tắc xử sự chung để hướng dẫn cách xử
sự cho mọi người trong xã hội hay gồm nhiều những quy phạm xã hội cho nên
chúng có các đặc điểm của các quy phạm xã hội là:
+ Chúng là khuôn khổ những khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách xử
4
sự cho mọi người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh
do chúng dự liệu thì đều phải xử sự theo cách thức mà chúng đã nêu ra. Căn cứ
vào pháp luật, đạo đức, các chủ thể sẽ biết mình được làm gì, không được làm gì
và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
+ Chúng là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật, các quy tắc đạo đức, có thể xác định được
hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là hợp đạo đức, hành vi nào là trái pháp luật,
hành vi nào là trái đạo đức.
+ Chúng được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức,
cá nhân cụ thể đã xác định được mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan
hệ xã hội do chúng điều chỉnh.
- Tính tương đồng phổ biến thứ hai giữa pháp luật đạo đức là tính phổ biến và xu
hướng phù hợp với xã hội. Đạo đức và pháp luật mang tính quy phạm phổ biến,
chúng đều là khuôn mẫu chuẩn mực trong hành vi của con người. Chúng tác động
đến các cá nhân tổ chức trong xã hội, tác động đến hầu hết các lĩnh vực trong đời
sống. Để có phạm vi ảnh hưởng lớn như vậy, pháp luật và đạo đức phải có sự phù
hợp với các tiêu chuẩn nhất định.
- Pháp luật và đạo đức đều phản ánh sự tồn tại của xã hội trong những giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử. Chúng là kết quả của quá trình nhận thức đời sống
của chính mình. Pháp luật và đạo đức đều chịu sự chi phối, đồng thời tác động lại
đời sống kinh tế xã hội.
- Chúng được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống vì chúng được ban hành
ra không phải để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể, một trường hợp cụ thể mà
để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là một trường hợp khi điều kiện hoàn
cảnh do chúng dự kiến xảy ra.
2. Điểm khác nhau giữa đạo đức và pháp luật.
- Về con đường hình thành nhà nước, pháp luật hình thành thông qua hoạt động xây
dựng pháp lý của nhà nước. Trong khi đó đạo đức được hình thành một cách tự do
5
nhận thức của cá nhân.
- Hình thức thể hiện của pháp luật và đạo đức: Hình thức thể hiện của đạo đức đa
dạng hơn với hình thức thể hiện của pháp luật, nó được biểu hiện thông qua dạng
không thành văn như văn hoá truyền miệng, phong tục tập quán…và dạng thành
văn như kinh, sách chính trị,…còn pháp luật lại biểu hiện rõ ràng dưới dạng hệ
thống của văn bản quy phạm pháp luật.
Xác định của hình thức văn bản thì đạo đức mang tính chung, định hướng còn pháp
luật thì cụ thể, rõ ràng. Đạo đức chỉ nhằm định hướng cho con người nên con người
cần tự tìm tòi khám phá và qua dư luận mà điều chỉnh hành vi một cách cụ thể.
- Tính chất: Đạo đức có nguồn gốc giá trị lâu dài, khi con người ý thức hành vi tự
do sẽ điều chỉnh hành vi đó. Do sự điều chỉnh đó xuất phát từ tự thân chủ thể nên
hành vi đạo đức có tính bền vững. Ngược lại, pháp luật là sự cưỡng bức, tác động
bên ngoài, dù muốn hay không người đó cũng phải thay đổi hành vi của mình. Sự
thay đổi này có thể là không bền vững vì nó có thể lập lại nơi này hay nơi khác nếu
vắng bóng pháp luật.
- Về biện pháp thực hiện, pháp luật đảm bảo rằng nhà nước thông qua bộ máy cơ
quan như cơ quan lập pháp, tư pháp,…còn đạo đức lại được đảm bảo bằng dư luận
và lương tâm của con người.
- Nguồn gốc: Pháp luật có tính quyền lực nhà nước, nó chỉ do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp quyền lực nhà nước, từ tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế
của nhà nước. Trong khi đó, đạo đức được hình thành một cách tự phát trong xã
hội, được lưu truyền từ đời này sang đời khác theo cách truyền miệng;
được đảm bảo bằng thói quên, bằng dư luận xã hội, bằng lương tâm, niềm tin của
mỗi người và bằng biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
- Pháp luật có tính hệ thống, bởi vì nó là một hệ thống các quy tắc xử sự chung đề
điều chỉnh mọi loại quan hệ xã hội phát sinh trong những lĩnh vực khác nhau của
đời sống như dân sự, kinh tế, lao động,… Ngược lại, đạo đức không có tính hệ
6
thống.
- Pháp luật luôn thể hiện ý chí của nhà nước. Đạo đức thường thể hiện ý chí của
một cộng đồng dân cư, ý chí chung của xã hội.
- Pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định, giai đoạn
có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp. Đạo đức ra đời và tồn
tại trong tất cả các giai đoạn phát triển của lịch sử.
3. Mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức
Pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với đạo dức. Đạo đức là tập hợp các quan
điểm, quan niệm của con người về cái thiện, cái ác, về sự công bằng và bất công,
về nghĩa vụ, danh dự và các phạm trù khác thuộc đời sống tinh thần của xã hội. Các
quan điểm, quan niệm này rất khác nhau, được quy định bởi các điều kiện của đời
sống vật chất xã hội. Trên cơ sở đó, hình thành nên hệ thống ứng xử của con người.
Khi đạo đức trở thành niềm tin nội tâm thì nó là nền tảng để điều khiển hành vi của
con người sao cho phù hợp với đòi hỏi chung của xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp
luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích
xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và
phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức.
Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra đời
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp
luật là công cụ quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước.
Trong xã hội có giai cấp, mối giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau đều có quan
niệm đạo đức riêng cho mình. Vì vậy, các quy phạm đạo đức có nhiều loại và
chúng có sự tác động qua lại với nhau. Giai cấp thống trị nắm quyền lực trong tay,
họ cũng có quan niệm đạo đức riêng, nên có ưu thế nâng quan niệm đạo đức trở
thành pháp luật. Do đó, pháp luật luôn phản ánh đạo đức của giai cấp cầm quyền.
7
Ví dụ: Trong thời kì nhà nước phong kiến Việt Nam, giai cấp thống trị sử dụng
“tam cương ngũ thường”, “tam tòng tứ đức” để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Trong khi xây dựng và thực hiện pháp luật, dù muốn hay không giai cấp cầm
quyền buộc phải tính đến yếu tố đạo đức nhằm tạo cho pháp luật một khả năng
thích ứng, khiến cho nó dường như thể hiện ý chí chung của mọi tầng lớp xã hội.
Có những quy phạm pháp luật, khi đã trở nên phổ biến trong xã hội, thành yếu tố
thường trực trong hành vi xã hội của con người sẽ trở thành quy phạm đạo đức.
Mặc dù chịu sự tác động của đạo đức và các quy phạm xã hội khác nhưng pháp
luật có tác động mạnh mẽ đối với đạo đức. Pháp luật có thể loại bỏ các chuẩn mực
đạo đức đã lỗi thời, cải tạo các chuẩn mực đạo đức, góp phần tạo nên các chuẩn
mực đạo đức mới, phù hợp hơn với tiến bộ xã hội.
Ví dụ: Đạo đức Nho giáo phương Đông mà thành trì là phong kiến Trung Quốc cả
ngàn năm vẫn còn nhiều ảnh hưởng trong nếp sống căn bản của người Việt Nam.
Đặc trưng của nó là cha mẹ có quyền hành rộng rãi đối với con cái.
Nền nếp gia phong cổ truyền vẫn còn đòi hỏi con cái phải phục tùng cha mẹ, đến
nỗi coi con cái như vật sở hữu của người có công sinh đẻ, nuôi dưỡng mình. Cha
mẹ có thể đánh đập, răn dạy con; có quyền cầm cố, bán đợ con, từ bỏ con; trong khi
con cái có nghĩa vụ không được làm trái lời dạy bảo của ông bà, cha mẹ.
Ví dụ:“Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”; “Phụ xử tử vong, tử bất vong bất
hiếu”;“Thương cho roi cho giọt, ghét cho ngọt cho bùi” ;
Ngược lại, chuẩn mực đạo đức có thể là nền tảng tinh thần để thực hiện các quy
định của pháp luật. Được pháp luật thừa nhận và trở thành quy phạm mang tính bắt
buộc chung, không chỉ đối với quốc gia mà còn mở rộng ra toàn thế giới.
Ví dụ: Điều 26 Công ước Viên về luật điều ước quốc tế năm 1969 quy định: “Mọi
điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thi
8
hành với thiện chí”; Nguyên tắc thiện chí là một trong những phạm trù đạo đức cơ
bản thể hiện tính trung thực cũng như tôn trọng việc thực hiện các cam kết quốc tế.
Hơn thế nữa, các quy phạm đạo đức này cũng được “luật hóa” trong các văn bản
pháp lý khác nhau của Việt Nam như Bộ luật dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình,
Luật thương mại, Bộ luật Hình sự,…;
Chuẩn mực đạo đức tuy khác nhau về phạm vi tác động, cơ chế tác động tới các
quan hệ xã hội nhưng chúng có chung mục đích điều tiết, điều chỉnh hành vi của
con người trong xã hội. Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật là mối
quan hệ tác động qua lại, biện chứng với nhau nhằm bổ sung nhằm hướng tới mục
đích điều chỉnh hành vi của con người. Trong mối quan hệ này, không thể phủ nhận
rằng, chuẩn mực đạo đức có có phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội rộng hơn
còn chuẩn mực pháp luật có phạm vi điều chỉnh sâu hơn.
Trong một số trường hợp nhất định, định hướng đạo đức muốn được thực hiện
thì phải thông qua các quy phạm pháp luật.
Ví dụ: Hiện nay, hiện tượng bạo lực gia đình vẫn xuất hiện và tiến triển nhanh
trong xã hội. Rõ ràng, các hành vi bạo lực gia đình đã đi ngược với truyền thống
thương yêu giúp đỡ nhau giữa các thành viên trong gia đình. Để hạn chế cũng như
triệt tiêu tình trạng bạo lực trên, bên cạnh việc sử dụng thiết chế đạo đức đảm bảo
thông qua bằng dư luận xã hội thì nhà nước còn phải sử dụng công cụ pháp luật để
định hướng đạo đức đi đúng quỹ đạo của nó. Trong Điều 8 Luật phòng chống bạo
lực gia đình năm 2008 quy định những hành vi bị nghiêm cấm:
“1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực
gia đình.
3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia
đình.
9
4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát
hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
….”
Pháp luật không chỉ là sự ghi nhận các chuẩn mực đạo đức mà còn là công cụ,
phương tiện bảo vệ các chuẩn mực đạo đức một cách hữu hiệu bằng các biện pháp,
chế tài cụ thể. Pháp luật có vai trò lớn trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển các
quy tắc đạo đức phù hợp, tiến bộ trong xã hội.
Còn chuẩn mực đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện các quy định của pháp
luật. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân thực hiện hành vi hợp pháp không phải
vì họ hiểu các quy định pháp luật mà họ tuân theo các quy tắc đạo đức, cách đối
nhân xử thế trong cuộc sống. Nhiều quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực đạo đức được
nhà nước sử dụng và nâng lên thành quy phạm pháp luật. Khi xây dựng ban hành,
nhà nước không thể không tính tới các chuẩn mực đạo đức.
Ví dụ: Điều 8 BLDS năm 2005 quy định về nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền
thống tốt đẹp: “Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ
gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt
đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi
người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam…”.
Việc xác lập nguyên tắc trên không chỉ đưa pháp luật vào quỹ đạo vận hành
chung mà còn giữ gìn và phát huy các phẩm chất vốn có của người Việt Nam về
tính trung thực, tính đoàn kết và nhân đạo trong truyền thống quý báu của dân tộc.
Khủng hoảng xã hội thường biểu hiện ở các quan hệ đạo đức trong xã hội. Khủng
hoảng đạo đức có thể tác động tiêu cực tới các mặt khác nhau của đời sống xã hội
trên tất cả các lĩnh vực.
10
Ví dụ: Nạn mại dâm có thể ảnh hưởng tới trật tự quản lý hành chính nhà nước. Từ
chỗ nó là một vấn đề đạo đức (nhân cách con người), nó trở thành một vấn đề xã
hội mang tính tệ nạn cao (ảnh hưởng đến trật tự xã hội, gây bức xúc trong dư luận)
ảnh hưởng nghiêm trọng tới trật tự trị an cũng như làm suy giảm các giá trị đạo đức
nhân văn cao cả.
Tóm lại, giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ qua lại, tác động tương
hỗ lẫn nhau. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp
tích cực khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyền. Pháp
luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng
được đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và
ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội.
KẾT LUẬN
Trên đây em đã phân tích những điểm giống và khác nhau của chuẩn mực pháp luật
và chuẩn mực đạo đức, từ đó nêu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa chuẩn mực pháp
luật và chuẩn mực đạo đức trên các khía cạnh cụ thể, cùng với các ví dụ chứng
minh chi tiết. Trong quá trình làm bài không thể tránh được nhưng sai sót, mong
thầy (cô) nhận xét để em có thể hoàn thiện hơn về kiến thức cũng như kỹ năng làm
bài tập của mình.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D thực trạng sử dụng thư viện của sinh viên trường đại học khoa học xã hội và nhân văn Luận văn Sư phạm 0
D Triết học của Khổng Tử nho gia và ý nghĩa của nó đỗi với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời đại của chúng ta Văn hóa, Xã hội 0
D Bài giảng thống kê cho khoa học xã hội - ĐH Lâm Nghiệp Khoa học Tự nhiên 0
D Đề thi kết thúc Thống kê cho khoa học xã hội Khoa học Tự nhiên 0
D Phân tích thống kê dữ liệu trong điều tra xã hội học Văn hóa, Xã hội 0
D Vận dụng quan điểm của triết học Mác về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội Môn đại cương 0
D giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc việt nam (qua các môn tự nhiên và xã hội, khoa học) Luận văn Sư phạm 0
D Ảnh hưởng của mạng xã hội facebook tới hoạt hoạt động học tập của sinh viên trường đại học tôn đức thắng hiện nay Văn hóa, Xã hội 0
D xây dựng bài tập tự nhiên và xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp ba Luận văn Sư phạm 0
D SKKN bước đầu sử dụng công cụ mạng xã hội để hỗ trợ dạy học dự án một số bài trong chương trình sinh học phổ thông Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top