tctuvan

New Member
Hoàng SA quần đảo Vàng bị xâm chiếm

Quần đảo Hoàng Sa quần đảo giàu tài nguyên bị giặc Trung xâm chiếm năm 1974, chúng đã đẩy mạnh các hoạt động quân sự, và khai thác, uy hiếp nền an ninh tổ quốc, và vừa đây chúng còn diễu võ dương oai bằng việc tổ chức 30 năm ngày giải phóng Hoàng Sa thực chất là ngày xâm lựơc Hoàng Sa


Những ngày này cách đây 40 năm (giữa tháng 1-1974), Trung Quốc đã dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Để chống trả sự xâm lược ấy, 74 người lính của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã ngã xuống trên vùng biển Hoàng Sa trong trận hải chiến khốc liệt ngày 19-1-1974. Pháp Luật TP.HCM đăng tải loạt bài này nhằm cung cấp cho bạn đọc cái nhìn toàn diện về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và hành vi sai trái của Trung Quốc trong sự kiện này.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương. Bảo Đại tuyên bố bãi bỏ quyền bảo hộ của Pháp và thành lập Chính phủ Trần Trọng Kim. Nhật đầu hàng đồng minh không lâu sau đó. Ngày 19-8-1945, Việt Minh lật đổ chính quyền Trần Trọng Kim. Ngày 25-8-1945, Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh ra tuyên ngôn độc lập và thiết lập Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Theo nguyên tắc, toàn thể lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam phải trở về quyền quản trị của Chính phủ VNDCCH.

Liên tiếp khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa

Sau ngày 2-9-1945, đồng minh cử Anh tới giải giáp quân đội Nhật kể từ vĩ tuyến 16 vào Nam và cử Trung Hoa (Quốc dân Đảng) tới giải giáp quân đội Nhật kể từ vĩ tuyến 16 ra Bắc. Ngày 23-9-1945, Anh giúp Pháp chiếm cứ một số tỉnh, thành Nam Bộ và cho thủy quân ra biển Đông chiếm lại Hoàng Sa và Trường Sa. Từ đây nhiều cuộc điều đình Việt-Pháp như Tạm ước ngày 8-3-1946 ở Hà Nội, hội nghị chuẩn bị tháng 5-1946 tại Đà Lạt, hội nghị chính thức tháng 7-1946 ở Fontainebleau, đều thất bại. Ngày 19-12-1946, toàn quốc vùng lên kháng chiến. Chính phủ VNDCCH rút vào khu an toàn. Pháp trở mặt, ngày 8-3-1949, Tổng thống Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại ký hiệp ước Elysée công nhận Việt Nam độc lập thống nhất trong Liên hiệp Pháp. Chính phủ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại được một số nước phương Tây công nhận.



Bốn chiến hạm của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa tháng 1-1974. Nguồn: Internet
Ngày 14-10-1950, chính phủ Pháp chính thức trao trả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền Bảo Đại. Ngày 7-9-1951, 51 nước họp Hội nghị Liên Hiệp Quốc tại San Francisco (Mỹ), Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Trần Hữu Long long trọng tuyên bố: “Vì dứt khoát lợi dụng mọi cơ hội để ngăn chặn mầm mống bất hòa, chúng tui xin khẳng định rằng chủ quyền của chúng tui trên các quần đảo Spratly (Trường Sa) và Paracels (Hoàng Sa) đã thuộc về Việt Nam từ mọi thời đại”. Không có một phái đoàn nào phản đối.

Quản lý trực tiếp về mọi mặt

Tháng 5-1954, Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ. Tháng 7-1954, Hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh và tạm chia cắt Việt Nam làm hai phần, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới và hai năm sau sẽ hiệp thương thống nhất. Tháng 10-1955, Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại và thành lập chế độ VNCH.

Quân lực từ thời Bảo Đại luôn hiện diện và bảo vệ Hoàng sa - Trường sa. Chính quyền đã cho một số công ty tới khai thác phân chim ở Hoàng Sa. Ngày 21-12-1959, Trung Quốc cho lính giả làm ngư dân đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng và Quang Hòa nhưng bị đẩy ra.

Ngày 16-9-1960, văn phòng Phó Tổng thống đệ trình lên Tổng thống Ngô Đình Diệm về tình hình quần đảo Hoàng Sa như sau: Quần đảo Hoàng Sa (Archipel des Paracels) là các đảo san hô nằm ngoài khơi biển Việt Nam, giữa kinh tuyến 110-115 độ Đông và vĩ tuyến 16-17 độ Bắc, cách xa bờ biển trung phần Việt Nam độ 400 km, ngoài số đảo nhỏ thì có 12 đảo lớn (mang cả tên nước ngoài). Số nhân viên sống trên đảo gồm: một trung đội thủy quân lục chiến (30 người) và 38 bảo an viên do một thiếu úy thủy quân lục chiến chỉ huy, bốn nhân viên phụ trách đài khí tượng, 38 nhân viên của Công ty Khai thác Phân chim.

Bản đồ Biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa theo Nha địa dư quốc gia VNCH 1974. (Nguồn: Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu)



Ngày 13-7-1961, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh về quần đảo Hoàng Sa: “Điều 1: Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc Thừa thiên-Huế nay đặc thuộc tỉnh Quảng Nam. Điều 2: Một đơn vị hành chính xã bao gồm trọn quần đảo này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang. Xã Định Hải đặt dưới quyền một phái viên hành chính”. [sup](1)[/sup]

Ngày 1-11-1963, quân đội làm đảo chính, hôm sau ám sát Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Ngày 21-10-1969, Thủ tướng Đệ nhị Cộng Hòa Trần Thiện Khiêm ký nghị định về quần đảo Hoàng Sa: “Điều 1: Nay sáp nhập Định Hải thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam vào xã Hòa Long cùng quận. Điều 2: Địa phận và ranh giới xã Hòa Long được ấn định lại y như bản đồ đính kèm bản chính nghị định này”.

Ngày 6-9-1973, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ra nghị định: “Điều 1: Nay sáp nhập các đảo Trường Sa (Spratly), An Bang (Amboya Cay), Thái Bình (Itu-Aba), Song Tử Đông (Northeast Cay), Song Tử Tây (Southwest Cay), Loại Ta (Loaita), Thị Tứ (ThiTu), Nam Yết (Namyit), Sinh Tồn (Sin-Cowe) và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy”.

Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa

Trung Quốc lợi dụng lúc tình hình ở Việt Nam bất ổn đã tiến hành xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Đầu năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ rút hết quân đội ra khỏi Việt Nam. Từ ngày 17-1-1974 đến ngày 20-1-1974, Trung Quốc mang hải quân hùng hậu đến đánh chiếm Hoàng Sa, làm thiệt mạng 74 binh lính VNCH khi tiến hành bảo vệ quần đảo này. Trung Quốc bắt giữ 48 tù binh trong đó có một người Mỹ tên là Gerald Kosh rồi trao trả tù binh tại Hong Kong qua Hội Chữ thập đỏ.

Ngày 21-1-1974, Bộ trưởng Ngoại giao VNCH Vương Văn Bắc gửi điệp văn đến Liên Hiệp Quốc và các nước có quan hệ ngoại giao để tố cáo hành động xâm lăng của Trung Quốc. Trong điệp văn có đoạn viết: “Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một phần lãnh thổ của nước VNCH. Chủ quyền của nước chúng tui trên các quần đảo ấy căn cứ trên lịch sử, địa lý và pháp lý chính đáng cũng như trên thực tế hành chính và sở hữu, thực là một sự kiện không thể chối bỏ được”. [sup](2)[/sup]

Một ngày sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc, lực lượng phi công chiến đấu của quân đội VNCH đã được huy động cho một chiến dịch rất lớn để phản công tái chiếm lại Hoàng Sa nhưng chiến dịch này đã không được thực hiện.

Về phía chính quyền VNDCCH, ngay từ năm 1960 đã cho hải quân sao lục lại những bản đồ từ thời Pháp về biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa. Các nét vẽ thì để y nguyên còn địa danh hay ghi chú khác thì chuyển ra Việt ngữ. Chúng tui phỏng đoán công việc này vừa để khẳng định Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, vừa để làm tài liệu chỉ đường cho các con tàu không số vận chuyển thêm nhân lực và vật lực cho sự nghiệp chống Mỹ ở miền Nam.

Đầu tháng 5-1975, Hải quân Quân đội nhân dân Việt Nam đã thay chân các toán lính VNCH kiểm soát các đảo ở Trường Sa nhưng chưa thể tái chiếm lại Hoàng Sa.

Mưu đồ của Trung Quốc xâm chiếm các đảo thuộc chủ quyền Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ khi ngày 14-3-1988 Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm các đảo Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Tú Nghĩa, Gạc Ma, Xubi thuộc quần đảo Trường Sa… làm 64 chiến sĩ bảo vệ đảo hy sinh. Ngày 22-12-2007, Trung Quốc thiết lập cái gọi là TP Tam Sa, lấy đường “lưỡi bò” làm ranh giới cho tỉnh Hải Nam, gồm cả đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam và hầu hết biển Đông.

Dòng sự kiện về cuộc hải chiến 40 năm trước

- Ngày 11-1-1974, Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Sau đó cho lực lượng xâm nhập vào các đảo phía Tây Hoàng Sa.

- Ngày 16-1-1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16) của VNCH khi thực thi nhiệm vụ tại quần đảo Hoàng Sa đã phát hiện hải quân Trung Quốc gần đảo Hữu Nhật, đồng thời phát hiện quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Quang Hòa và cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh.

- Ngày 17-1-1974, Hải quân VNCH đã cử khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ4) đến nhổ cờ Trung Quốc tại các đảo trên. Cùng ngày, Trung Quốc quyết định huy động lực lượng hùng hậu tấn công quân đội VNCH ở Hoàng Sa.

- Ngày 18-1-1974, Hải quân VNCH tăng cường tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ5) và hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ10) hình thành hải đoàn đặc nhiệm bảo vệ Hoàng Sa, gồm bốn chiến hạm HQ4, HQ5, HQ10 và HQ16, do Đại tá Hà Văn Ngạc chỉ huy.

- Ngày 19-1-1974, quân VNCH tiến vào đảo Quang Hòa với lệnh chỉ huy chiếm lại đảo một cách hòa bình và không dùng vũ lực trước. Tuy nhiên, quân lực Trung Quốc đang chiếm đóng trên đảo nổ súng làm thiệt mạng hai người và bị thương hai người. Hải quân VNCH quyết định phản kích trong đêm, cả bốn chiến hạm tiến vào lòng chảo Hoàng Sa. Cuộc chạm trán hai bên nổ ra kịch liệt, chiến hạm HQ10 trúng đạn, bốc cháy mang theo 62 binh sĩ nằm lại mãi mãi ở Hoàng Sa, trong đó có Hạm trưởng Ngụy Văn Thà. Trong cuộc hải chiến bảo vệ chủ quyền thiêng liêng ấy có tất cả 74 người Việt Nam ngã xuống vì Hoàng Sa. Sau đó Trung Quốc đã chiếm cứ toàn bộ Hoàng Sa cho tới ngày hôm nay.

M.CƯỜNG tổng hợp
Nhà nghiên cứu NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU





Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện trong Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1838.

Về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa: Luận điểm, luận cứ, luận chứng pháp lý quốc tế



Vào đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, năm 1909 khi người Trung Hoa bấy giờ bắt đầu có ý đồ xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa mà họ gọi là Tây Sa, bằng hành động thám sát lần đầu tiên vì cho rằng quần đảo này là vô chủ, các nhà nước ở Đại Việt hay Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi liên tục theo đúng nguyên tắc pháp lý quốc tế thời bấy giờ, với những chứng cứ sau đây:


Một là, với tính cách nhà nước, đội Hoàng Sa, một tổ chức bán quân sự đã được giao nhiệm vụ, riêng một mình kiểm soát qua chức năng kiêm quản đội Bắc Hải hoạt động ở phía nam biển Đông và nhiệm vụ trực tiếp khai thác định kỳ, liên tục và hòa bình các hải sản quý cùng các sản vật kể cả súng ống của các tàu đắm tại các đảo Hoàng Sa suốt thời Đại Việt, trong thời các chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, tức từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1801 và sau đó là thời Việt Nam thống nhất, trong buổi đầu triều Nguyễn từ 1802 đến trước 1815. Từ năm 1816, đội Hoàng Sa phải phối hợp với thủy quân. Hằng năm, đội Hoàng Sa hoạt động trong 6 tháng, từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch (tháng 4 đến tháng 9 dương lịch) để phù hợp với điều kiện thời tiết ở vùng biển của quần đảo Hoàng Sa.


Hai là, suốt thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ 1816, thủy quân được giao trọng trách liên tục xác lập chủ quyền, kiểm soát, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa.


Ba là, về mặt quản lý hành chánh, liên tục suốt trong 4 thế kỷ, từ thế kỷ XVII đến năm 1974, quần đảo Hoàng Sa được các chính quyền qua các thời đại ở Việt Nam thể hiện quyền lực tối thiểu của mình, đặt dưới sự quản lý hành chánh của Quảng Ngãi (khi là phủ hay là trấn hay tỉnh qua từng thời kỳ lịch sử) hay của tỉnh Thừa Thiên (thời Pháp thuộc) hay của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (thời chia cắt Nam Bắc) rồi đến TP Đà Nẵng (thời thống nhất đất nước). Việc xác định sự quản hạt này hay được ghi rất rõ trong các sách địa lý của Nhà nước biên soạn như bộ Hoàng Việt Địa Dư Chí hay Đại Nam Nhất Thống Chí của quốc sử quán dưới triều Nguyễn, hay do chính hoàng đế hay triều đình (Bộ Công) như thời vua Minh Mạng khẳng định, hay bằng các dụ, sắc lệnh, quyết định của chính quyền ở Việt Nam như dụ của Bảo Đại, triều đình Huế, Toàn quyền Đông Dương ở thời Pháp thuộc, hay tổng thống, tổng trưởng trong thời kỳ Việt Nam bị chia cắt, hay quyết định, nghị quyết của Nhà nước, Quốc hội thời độc lập thống nhất. Điều này khác với người Trung Hoa, chỉ xác định sự quản lý hành chánh sau năm 1909, tức vào năm 1921 và rồi vào năm 1947... có nghĩa là sau Việt Nam hơn 3 thế kỷ. Còn tất cả chỉ là suy diễn không có bằng chứng cụ thể rõ ràng.


Bốn là, bất cứ dưới thời đại nào, các nhà nước ở Việt Nam cũng có những hành động tiếp tục khẳng định và thực thi chủ quyền hằng năm như đo đạc thủy trình, để vẽ bản đồ do đội Hoàng Sa cuối thời chúa Nguyễn hay do thủy quân từ năm 1816 dưới triều Nguyễn (bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Đại Nam Thực Lục Chính Biên hay Đại Nam Hội Điển Sự Lệ của Nội các, hay Châu bản triều Nguyễn đã ghi rất rõ). Sau này, từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1974, Việt Nam cũng tiếp tục tổ chức các đoàn thám sát, đo đạc, vẽ bản đồ.


Năm là, trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Nguyễn, nhất là từ năm 1836 trở thành lệ, hằng năm đều luôn luôn tổ chức xây dựng bia chủ quyền từng hòn đảo. Trong thời bị xâm phạm cũng thế, các chính quyền ở Việt Nam luôn tiếp tục cho dựng bia chủ quyền thay thế bia bị hư hỏng.




Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã


Sáu là, trước thời kỳ bị xâm phạm, các triều đại Việt Nam, nhất là thời vua Minh Mạng của triều Nguyễn đã cho dựng miếu thờ làm bằng nhà đá (đá san hô), đào giếng... Riêng tại đảo Phú Lâm, tài liệu Trung Quốc ghi có miếu ghi rõ Hoàng Sa Tự của Việt Nam.




Bảy là, dưới triều Nguyễn nhất là thời vua Minh Mạng đã cho trồng cây tại các đảo để cho thuyền bè ở đằng xa nhận thấy, tránh bị nạn. Và các nhà nghiên cứu thực vật như La Fontaine cũng thừa nhận các thực vật cây cối ở Hoàng Sa phần lớn có nguồn gốc ở miền Trung Việt Nam.


Tám là, dưới triều Gia Long như tài liệu của Gutzlaff viết trong The Journal of The Geographical Society of London, vol 19. 1849, trang 97 đã cho biết Việt Nam đã thiết lập trại binh nhỏ và một điểm thu thuế ở Hoàng Sa. Đến thời kỳ bị xâm phạm từ năm 1909, các chính quyền Việt Nam lại là chính quyền sớm nhất đã tổ chức các trại lính đồn trú ở đảo Hoàng Sa (Patlle).


Chín là, chính quyền ở Việt Nam đã cho xây trạm khí tượng đầu tiên tại đảo Hoàng Sa vào năm 1938 hoạt động trong thời gian dài cho đến năm 1974.


Mười là, trước thời kỳ bị xâm phạm, tức năm 1909, chính các hoàng đế Việt Nam như vua Minh Mạng và triều đình, cụ thể là Bộ Công đã lên tiếng khẳng định Hoàng Sa là nơi hiểm yếu trong vùng biển của Việt Nam, nằm trong cương vực của Quảng Ngãi.


Mười một là, trước khi bị xâm phạm, chưa có một hải đảo nào được nhiều tài liệu chính thức của Nhà nước, từ chính sử địa lý của Quốc sử quán triều Nguyễn như Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam thực lục chính biên, hay địa dư như Hoàng Việt dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí, hay sách hội điển, một loại pháp chế ghi những điển chương pháp chế của triều đình như Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ. Cũng chưa có một hải đảo nào tại Việt Nam lại được những nhà sử học lớn của nước Việt Nam đề cập đến như Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục (1776). Phan Huy Chú (1821) trong Lịch triều hiến chương loại chí, Dư địa chí, hay Nguyễn Thông trong Việt sử cương giám khảo lược. Đặc biệt việc xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa lại còn do sách của chính người Trung Hoa viết như Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán viết năm 1696. Đó là chưa kể nhiều tác giả Tây phương như là Le Poivre (1749), J.Chaigneau (1816 - 1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)... cũng đã khẳng định rõ ràng Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.


Mười hai là, bản đồ An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd trong cuốn Tự điển Việt - Latinh, nhan đề Latino - Anamiticum xuất bản năm 1838 đã ghi rõ: Paracel Seu Cát Vàng ở biển Đông. Trong khi bản đồ "An Nam” này chỉ vẽ có Paracel Seu Cát Vàng, lại không có vẽ Hải Nam của Trung Quốc trong biển Đông. Rõ ràng bản đồ An Nam đại quốc họa đồ đã minh chứng Cát Vàng (tức Hoàng Sa) chính là Paracel nằm trong vùng biển của Việt Nam.


Như thế với chức năng kiểm soát sự khai thác các sản vật ở biển Đông và những hành động cụ thể trực tiếp khai thác các sản vật của Đội Hoàng Sa, một tổ chức dân binh liên tục gần hai thế kỷ suốt từ đầu thế kỷ 17 cho đến năm 1816 cùng những hành động xác lập và thực thi chủ quyền rất cụ thể như cột mốc, dựng bia, xây miếu, trồng cây, đo đạc thủy trình vẽ bản đồ của thủy quân Việt Nam từ năm 1816 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua và triều đình cũng như những lời tuyên bố của vua, triều đình nhà Nguyễn và sự quản hạt hành chính vào Quảng Ngãi từ đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, tất cả là những bằng chứng hiển nhiên, bất khả tranh nghị về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
 

tctuvan

New Member
Không có điểm tựa pháp lý nào cho Trung Quốc
Họ chỉ cần biết "Luật là do kẻ lớn nghĩ ra"
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top