Download Tiểu luận Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện và thực tiễn áp dụng

I. Một số vấn đề lý luận về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện

Theo từ điển tiếng Việt: “Thụ lý là tiếp nhận giải quyết vụ việc” ( )
Theo từ điển luật học, “Thụ lý vụ án là bắt đầu tiếp nhận một việc để xem xét và giải quyết” ( ).
Theo pháp luật tố tụng dân sự, thụ lý vụ án là việc tòa dân sự nhận đơn yêu cầu của đương sự đề nghị xem xét, giải quyết một vụ việc để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức. Hay trong giáo trình Luật tố tụng dân sự của trường Đại học luật Hà Nội năm 2005 đưa ra khái niệm thụ lý vụ án ngắn gọn hơn: Thụ lý vụ án là việc tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết. Dù khái niệm được đưa ra có khác nhau về mặt lượng câu chữ, nhưng nội hàm về khái niệm thụ lý vụ án dân sự thì vẫn dựa trên tin thần của BLTTDS năm 2004, phải có các bước như tòa án nhận đơn khởi kiện, vào sổ thụ lý hay không vào sổ thụ lý (qua quá trình xem xét điều kiện để thụ lý vụ án) để giải quyết vụ án dân sự.
Tòa án là cơ quan có chức năng giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân & gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Để giải quyết các tranh chấp này Tòa án phải thụ lý. Tuy nhiên, hoạt động thụ lý của tòa án có phát sinh hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc thời hiệu quyền khởi kiện vụ án dân sự của các đương sự có đúng các quy định của pháp luật không, đối tượng tranh chấp được xác định trên cơ sở yêu cầu của bên này đối với bên kia có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện hợp pháp của đương sự.
Như vậy, thụ lý vụ án dân sự có mối quan hệ mật thiết với các hoạt động tố tụng khác, tòa án chỉ tiến hành hòa giải, đưa vụ án ra xét xử sau khi đã thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án dân sự là một giai đoạn của tố tụng dân sự - giai đoạn đầu tiên trong quá trình tòa án giải quyết vụ án. Thụ lý vụ án dân sự thực chất là việc tòa án chấp nhận đơn khởi kiện xem xét giải quyết. Đây là một hành động cụ thể của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp. Thụ lý vụ án làm phát sinh quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án có trách nhiệm căn cứ vào các quy phạm nội dung giải quyết tranh chấp đúng pháp luật, và để vụ án dân sự được giải quyết đúng thời hạn và chính xác thì tòa án phải làm tốt công tác thụ lý.
Thụ lý vụ án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định việc Tòa ạn đã nhận trách nhiệm giải quyết vụ án, là cơ sở pháp lý để tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng, giải quyết vụ án, và là cơ sở để tòa án tính thời hạn giải quyết vụ án dân sự.
Một trong các trình tự, thủ tục quan trọng nhất trong công tác thụ lý vụ án dân sự đó là tòa án nhận và xem xét đơn khởi kiện, và sau khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án sẽ tiến hành xem xét đơn khởi kiện đó, do đó đương nhiên sẽ có một bước đó là trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu thuộc trường hợp tòa án phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hay sẽ chuyển đơn khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền giải quyết nếu thuộc trường hợp tòa án phải chuyển đơn khởi kiện của người khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Như vậy, có thể thấy, việc trả lại đơn khởi kiện sẽ phải được tiến hành sau một khoảng thời gian hợp lý do các nhà làm luật dự liệu để tòa án xem xét xem có thuộc trường hợp phải trả lại đơn khởi kiện hay không. Nếu trả lại đơn khởi kiện thì có nghĩa là tòa án đang tiến hành giải quyết trường hợp mà tòa án không thụ lý vụ án dân sự.
Dựa trên những vấn đề lý luận cơ bản trên đây mà nhà làm luật sẽ vận dụng để áp dụng vào luật thực định, quy định về vấn đề thụ lý, trả lại đơn khởi kiện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành.

II. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện và thực tiễn áp dụng
1. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện
1.1. Về thụ lý vụ án dân sự
1.1.1. Về thẩm quyền
Theo Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 và Điều 1 BLTTDS năm 2004 (sau đây gọi tắt là BLTTDS) thì tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân – gia đình, kinh doanh thương mại, lao động theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Thẩm quyền của tòa án nhân dân (sau đây gọi tắt là TAND) bao gồm thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của tòa án các cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ. Thẩm quyền theo loại việc của tòa án trong việc thụ lý giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân-gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS. Thẩm quyền của tòa án các cấp được quy định tại các điều 33 và điều 34 BLTTDS. Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ được quy định tại Điều 35 và 36 BLTTDS. TAND là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự có nhiệm vụ giải quyết các vụ án dân sự. Khi xem xét việc thụ lý vụ án tòa án phải căn cứ vào các quy định về thẩm quyền của tòa án theo pháp luật tố tụng dân sự để xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án. Tòa án có quyền thụ lý vụ án dân sự và lập hồ sơ vụ án.
1.1.2. Các điều kiện để thụ lý vụ án dân sự
 Điều kiện về quyền khởi kiện của người khởi kiện
BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hay thông qua người thay mặt hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự (gọi chung là người khởi kiện) tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” (Điều 161). Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước: cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật Hôn nhân và Gia đình quy định; công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định; cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách...
 Điều kiện về phạm vi khởi kiện:
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hay nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hay nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án; nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hay nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án; cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có thể khởi kiện đối với một hay nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hay nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
 Điều kiện về chủ thể khởi kiện
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự bao gồm cá nhân, cơ quan hay tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định.
Cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự đồng thời phải có quyền lợi bị xâm phạm. Đối với những cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng mà có quyền lợi phải được bảo vệ thì họ không thể tự mình khởi kiện vụ án được mà phải do người thay mặt thay mặt để thực hiện việc khởi kiện vụ án.
Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp bị xâm phạm hay tranh chấp, ngoài ra các cơ quan tổ chức còn khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của pháp luật.
 Vụ án khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án
Việc khởi kiện phải đúng thẩm quyền xét xử về dân sự của tòa án. Vụ án khởi kiện phải thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của tòa án quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS. Vụ án được khởi kiện phải đúng với cấp tòa án có thẩm quyền giải quyết quy định tại Điều 33, 34 BLTTDS. Vụ việc khởi kiện phải đúng thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ quy định tại Điều 35 BLTTDS. Đối với những việc pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải quyết trước thì chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện vụ án khi các cơ quan hữu quan đã giải quyết mà họ không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan đó (ví dụ như các tranh chấp về quyền sử dụng đất thì theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai 2003, các tranh chấp về quyền sử dụng đất phải tiến hành hòa giải tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn...)
 Vụ án chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án hay của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trừ trường hợp quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 168 BLTTDS.
 Vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện: Để xác định thời hiệu khởi kiện đã hết hay chưa, thì Toà án phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện đối với quan hệ pháp luật cụ thể đó. Trường hợp pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện, thì việc xác định thời hiệu khởi kiện phải căn cứ vào quy định tại Điều 159, 160 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 2 Phần IV của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS 2004.
 điều kiện về người khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí và xuất trình biên lai thu tạm ứng án phí trong thời hạn được thông báo, trừ trường hợp có lý do chính đáng khác
 Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện: Theo điều 165 BLTTDS, người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người có quyền khởi kiện và yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Theo hướng dẫn tại Mục 5 Phần 1 Nghị quyết 02/2006 ngày 13/5/2006 của Hộ đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 02/2006), trong trường hợp vì lý do khách quan họ không thể nộp đầy đủ ngay các tài liệu, chứng cứ thì họ phải nộp các tài liệu chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu chứng cứ khác họ phải tự mình nộp trong quá trình giải quyết vụ án. Các tài liệu, chứng cứ người khởi kiện kèm theo đơn khởi kiện tùy từng loại tranh chấp cụ thể, chẳng hạn như đối với các tranh chấp về hôn nhân gia đình, là giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, bản sao giấy khai sinh của các con; chứng cứ,giấy tờ chứng minh tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng hay tài sản thộc sở hữu riêng của từng người; các chứng cứ tài liệu chứng minh gây mâu thuẫn giữa vợ chồng và các tài liệu khác nếu xét thấy cần thiết.v.v...Những chứng cứ ban đầu có ý nghĩa rất quan trọng đố với việc thụ lý vụ án, nếu chứng cứ ban đầu cung cấp không đầy đủ có thể dẫn đến tòa án thụ lý không đúng, có thể gây nên những hậu quả khó lường.
1.1.3. Thủ tục thụ lý vụ án dân sự
- Nhận đơn khởi kiện: người khởi kiện có thể nộp đơn trực tiếp tại tòa án hay gửi qua bưu điện, Tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án hay gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây: tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác; trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện: Trong trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Ðiều 164 của BLTTDS thì Tòa án thông báo cho người khởi kiện biết để họ sửa đổi, bổ sung trong một thời hạn do Tòa án ấn định, nhưng không quá ba mươi ngày; trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày. Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 2 Ðiều 164 của BLTTDS thì Tòa án tiếp tục việc thụ lý vụ án; nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
- Xác định tiền tạm ứng án phí và thông báo cho người khởi kiện: sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Tòa án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.
- Vào sổ thụ lý vụ án dân sự: Khi người khởi kiện nộp cho tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì tòa án ra quyết định thị lý vụ án và vào sổ thụ lý vụ án dân sự. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hay không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí thì tòa án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo.
Cũng như các quy định trước đây, Điều 171 BLTTDS quy định việc thụ lý vụ án được tòa án tiến hành sau khi xem xét đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo và biên lại nộp tiền tạm ứng án phí của người khởi kiện thấy đã thỏa mãn những điều kiện để thụ lý vụ án. Để đảm bảo cho vụ án được giải quyết nhanh chóng, đúng thời hạn luật định, các điều 172, 173 BLTTDS đã quy định rõ nhiệm vụ của Tòa án ngay sau khi thụ lý vụ án.
Điều 174 BLTTHS quy định trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho viện kiểm sát cùng cấp biết việc tòa án đã thụ lý vụ án. Nội dung thông báo phải thể hiện được những yêu cầu của người khởi kiện và danh sách tài liệu chứng cứ người khởi kiện nộp theo đơn khởi kiện. Đây là một trong những quy định mới của BLTTDS để hòa nhập chung với xu hướng của thế giới ( ). Tuy nhiên, BLTTDS mới dừng ở quy định chung về việc người được thông báo không nộp cho tòa án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện thì phải chịu hậu quả pháp lý nhưng hậu quả pháp lý họ phải chịu cụ thể là gì, bất lợi ra sao thì chưa được quy định rõ (điểm g khoản 2 Điều 174).
Về hình thức văn bản trả lại đơn khởi kiện và giải quyết khiếu nại: Như đã đề cập ở phần II.1, một vấn đề đặt ra khi thực hiện các quy định trong việc trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện bằng văn bản đó là cần áp dụng loại hình thức văn bản nào? Có quan điểm cho rằng nhất thiết phải ra quyết định trả lại đơn cho phù hợp với các quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quan điểm ngược lại cho rằng giai đoạn nhận đơn không phải do thẩm phán hay do chánh án trực tiếp làm nên chỉ cần cán bộ nhận đơn trả lại đơn bằng văn bản là đủ. Ở đây, cần thấy rằng cho dù là ai thực hiện hành vi trả lại đơn cho đương sự thì văn bản do tòa án phát ra đều phải có chữ ký và con dấu của tòa án đó, thực tế chỉ có những người có chức danh trong tòa án mới có quyền ký tên, đóng dấu ( ). Do đó, quan điểm thứ nhất, là áp dụng hình thức ra quyết định khi trả lại đơn khởi kiện là phù hợp với các quy định của pháp luật và thực tiễn giải quyết của tòa án. Do đó, nên sửa đổi điều 168 và điều 170 BLTTDS quy định rõ hình thức văn bản là quyết định, như vậy mới phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tham khảo pháp luật của một số nước như Nga, Pháp...về hình thức văn bản thấy hầu hết các hành vi tố tụng do thẩm phán tiến hành đểu thể hiện dưới hình thức văn bản là quyết định và đều có thể bị khiếu nại ( ). Và đây là vấn đề khá phức tạp cả về lý luận và thực tiễn nên để áp dụng thống nhất rất cần có sự hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền.
Về hậu quả pháp lý của việc không gửi cho tòa án ý kiến bằng văn bản, cần bổ sung điểm g Khoản 2 Điều 174 BLTTDS, theo đó quy định rõ hậu quả pháp lý là đương sự sẽ bất lợi vì tòa án sẽ giải quyết vụ án dựa trên căn cứ do nguyên đơn cung cấp; tòa án có quyền giải quyết vụ án vắng mặt một bên theo những tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện đưa ra vì không có sự phản đối từ phía bên kia ( ). Đồng thời quy định trong thông báo việc thụ lý vụ án phải nêu rõ quyền được xem, sao chụp đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp của những người được thông báo. Quy định như vậy sẽ đề cao được trách nhiệm của người được thông báo trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Điều này pháp luật của một số nước cũng quy định ( ).
Về thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí, để áp dụng thống nhất và chính xác nên sửa đổi điều 171 BLTTDS quy định trong trường hợp người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí tòa án gửi ngay thông báo cho người khởi kiện biết phải nộp tiền tạm ứng án phí để họ đi nộp. Trong thông báo phải bao gồm các nội dung: số tiền tạm ứng án phí, thời hạn, địa điểm nộp tiền tạm ứng án phí và thời hạn nộp lại biên lai cho tòa án. Việc bổ sung quy định này bảo đảm tính rõ ràng của thông báo, vừa đỡ rườm rà vừa đỡ gây tốn kém cho đương sự. Ngoài ra, cần quy định thành lập một quỹ về án phí để hỗ trợ bảo đảm cho người dân thực hiện quyền khởi kiện. Để khắc phục những trường hợp do không có tiền nộp tạm ứng án phí thì tòa án sẽ không thụ lý vụ án và quyền, lợi ích hợp phaspv bị xâm phạm sẽ không được bảo vệ.
Thực tiễn áp dụng Điều này cho thấy, ở khoản 1 Điều 171 BLTTDS không quy định về thời hạn cụ thể Tòa án thông báo cho người khởi kiện đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tạm ứng án phí. Trường hợp người khởi kiện không đến Tòa án thì giải quyết thế nào? Trường hợp này theo em, nên quy định theo hướng: “…nếu người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện”, và quy định rõ trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Bởi vì quy định như vậy sẽ ràng buộc trách nhiệm đối với người khởi kiện, rút ngắn thời gian giải quyết vụ án.
IV. Kết luận

Như vậy, có thể thấy pháp luật thực định hiện hành về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện ở nước ta đã có những bước phát triển so với những quy định trước đây, do sự ra đời của BLTTDS đã kế thừa và khắc phục được những hạn chế đó. Tuy nhiên, thực tiễn luôn vận động không ngừng, đòi hỏi sự tương thích của pháp luật thực định để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn, và pháp luật về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện cũng không ngoại lệ. Tầm quan trọng của chế định “Khởi kiện và thụ lý vụ án” trong pháp luật tố tụng dân sự luôn được thể hiện trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta. Đây là là một trong những vấn đề mấu chốt nhất của luật thực định mang tính quyết định đến thành tựu của ngành tư pháp không chỉ ở nước ta mà của cả các quốc gia trên thế giới. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện góp phần hoàn thiện chế định này của pháp luật tố tụn dân sự.
Nước ta đang trong tiến trình đổi mới đất nước, nền kinh tế thị trường đang phát triển, vấn đề các quy định của pháp luật trở nên không tương thích với thực tiễn là điều dễ xảy ra, đặc biệt là vấn đề về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự. Do đó, cần không ngừng việc nghiên cứu để hoàn thiện dần các quy định của pháp luật về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện trong tố tụng dân sự để phù hợp với thực tiễn trong mỗi giai đoạn kinh tế - xã hội của đất nước.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Ứng dụng mô hình DEA và mô hình Hồi quy Tobit để kiểm định các nhân tố tác động đến mức độ hiệu quả của các NHTM Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Quy định của WTO về đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các thành viên đang phát triển Luận văn Kinh tế 0
D Những quy định của luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại thực tiễn áp dụng và những vấn đề đặt ra Luận văn Luật 0
D Đánh giá tác động của chính sách thời giờ làm việc – thời gian nghỉ ngơi theo quy định Luận văn Kinh tế 0
D Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính việt nam Luận văn Luật 0
D Nghiên cứu hệ thống chứng từ kế toán theo quy định của TT 200/2014/TT-BTC Luận văn Kinh tế 0
D ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO CỦA VIỆT NAM Luận văn Kinh tế 0
D Chất lượng thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của bộ trưởng Văn hóa, Xã hội 0
D Quy chế pháp lý của đảo theo quy định của công ước luật biển năm 1982 và những vấn đề đặt ra đối với Luận văn Luật 0
D Bằng những quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016, hãy chứng minh thuế nhập khẩu Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top