xshiro_kut3x

New Member
Đề tài: bạn hãy cho biết những vấn đề xã hội bức xúc ở việt nâm hiện nay là gì? phân tích thực trạng một số vấn đề tiêu biểu.
Bài làm:
Phần mở đầu
Các vấn đề xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó ảnh hưởng đến mọi cá nhân, mọi dân tộc, mọi quốc gia. Giải quyết các vấn đề xã hội luôn là một bài toán lớn mà mỗi quốc gia dân tộc không thể tự mình giải quyết trong một sớm một chiều được. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi xu thể đô thị hóa lan ra toàn cầu thi theo đó là vô số những vấn đề xã hội nảy sinh. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, chính vì thế giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta. Do đó để tìm hiểu rõ hơn về các vấn đề xã hội của Việt Nam hiện nay tui xin nghiên cứu tiểu luận : “ những vấn đề xã hội bức xúc của việt nam hiện nay là gì? Phân tích thực trạng của một số vấn đề tiêu biểu”.
Nội dung chính
I/ Cơ sở lí luận:.
Giải quyết các vấn đề trong xã hội vẫn luôn là một mục quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong suốt quá trình đổi mới của nước ta từ xưa đến nay. Qua các văn kiện đảng từ đại hội VI đến đại hội XI đều nêu ra những thành tựu, hạn chế cũng như giải pháp cho các vấn đề bức xúc ở Việt Nam hiện nay như: xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, môi trường, giao thông, dân số và kế hoạch hóa gia đình,lao động và việc làm. Đây đều là những vấn đề nóng bỏng, gây nhiều bức xúc trong dư luận từ xưa đến nay nhưng việc thực hiện không phải một sớm một chiều mà hoàn thành được mà cần có một lộ trình lâu dài. Mới nhất trong văn kiện đại hội đảng XI khi nói về chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020 đã nêu rõ nhiệm vụ cho việc giải quyết các vấn đề xã hội:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo
Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông
Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai
Xóa đói giảm nghèo, chống tái nghèo
Kiềm chế tốc độ phát triển dân số, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình
Tốc độ tăng dân số ổn đinh ở mức khoảng 1%

II/ Thực trạng của một số vấn đề xã hội ở nước ta hiện nay.
1.Xóa đói giảm nghèo:
Theo số liệu của chương trình phát triển liên hợp quốc ở việt nam thì năm 2004 chỉ số cùng kiệt ở việt nam là 41/95 nước. Cũng theo số liệu của chương trình phát triển liên hợp quốc, vào năm 2002 tỷ lệ cùng kiệt theo chuẩn quốc gia ở việt nam là 12,9 %, theo chuẩn thể giới là 29% và tỉ lệ cùng kiệt lương thực là 10,87%. Cho đến năm 2010, theo chuẩn cùng kiệt trên thì cả nước Việt Nam hiện có khoảng 1,7 triệu hộ dân nghèo, đạt tỉ lệ 9.5% dân số. Tuy nhiên theo nhiều đại biểu đều có ý kiến rằng tỉ lệ hộ cùng kiệt giảm không phản ảnh thực chất vì số lượng người cùng kiệt trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng do tác động của lạm phát ( khoảng 40% kể từ khi ban hành chuẩn cùng kiệt đến nay) và do suy giảm kinh tế. Chuẩn cùng kiệt nước ta hiện nay là 200-260k/người/tháng. Mặc dù vậy, xóa đói giảm cùng kiệt chưa bền vững, tình trạng tái cùng kiệt còn cao. Đó là do người dân chưa còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống mà chưa có các thiết chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái cùng kiệt trở lại như thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn giao thông, tai nạn lao động… Đặc biệt khi việt nam hôi nhập kinh tế toàn cầu thì thách thức đối với sự nghiệp giảm cùng kiệt còn lớn. Ở trong khu vực nông thôn tí lệ đói cùng kiệt giảm chậm hơn so với thành thị nhưng tương đối ổn định từ 45,5%(1998) xuống 21,2%(2010). Khu vực đồng bào thiểu số tốc độ giảm cùng kiệt được cải thiện đáng kể do chương trình 135 của chính phủ từ75,2%(1998) xuông 28,8%(2010). Sự phân bố hộ cùng kiệt các vùng, các miền còn chưa đều. Bên cạnh tỷ lệ cùng kiệt còn 6,1% của vùng Đông Nam Bộ và tỷ lệ cùng kiệt còn 12,9% của vùng đồng bằng sông Hồng, thì vùng Tây Bắc vẫn còn tới 46,1%, tức là còn gần một nửa; vùng Bắc Trung Bộ và vùng Tây Nguyên tuy giảm nhanh nhưng vẫn còn gần một phần ba; vùng Đông Bắc vẫn còn 23,2%; vùng Duyên hải Nam Trung Bộ vẫn còn 21,3%; ngay cả vùng ĐBSCL một vựa lúa của cả nước cũng vẫn còn 15,3%.
Ta có thể thấy rằng mặc dù việc xóa đói giảm cùng kiệt ở nước ta đã cải thiện đáng kể so với trước đây song bên cạnh đó còn nhiều bất cập, tỉ lệ hộ cùng kiệt vẫn còn ở mức cao, số hộ cận kề chuẩn cùng kiệt còn đông, sự phân hóa giàu cùng kiệt ngày càng sâu.
2. Giáo dục và đào tạo:
Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Trong khi qua đợt cải cách lại nền giáo dục ta có thể thấy khối lượng kiến thức đối với các em học sinh không những không được giảm đi mà còn tăng lên về khối lượng vậy mà được bộ giáo dục gán cho mác “ giảm tải”, trong khi đó khối lượng kiến thức vẫn còn nặng về lí thuyết nhiều, các em không có điều kiện để vận dụng những điều đã học vào thực tế chính vì thế học sinh cảm giác nhàm chán, thiếu thưc tế. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chủ yếu trong thời điểm bây giờ thì phương pháp dạy học vẫn chủ yếu là cô đọc trò chép, nó ăn sâu từ ngay thời điểm tiểu học, trung học dẫn đến khiến cho học sinh thụ động, thiếu sáng tạo thế nên khi học sinh vào học đại học trong một môi trường mới mà vấn đề tự học, sáng tạo trong học tập quan trọng thì nhân tố này sinh viên lại không có. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập. Nhà nước chưa tìm ra được một giải pháp, lối đi để cải thiện tình trạng giáo dục của việt nam hiện nay một cách có hiệu quả. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội. Mặc dù đã có rất nhiều cuộc kêu gọi đem lại sự trong sạch trong học đường nhưng tình trạng chạy bằng, copy, học hộ, thi hộ,… vẫn còn diễn ra nhiều trong nền giáo dục gây nên nhiều bức xúc trong dư luận. Tình trạng suy thoái về đạo đức, nhân phẩm của một bộ phận sinh viên, giáo viên còn diễn ra.
3. Lao động và việc làm:
Tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở thành thị giảm từ 5.88%(1996) xuống còn 4,6%(2009). Trong khi đó tỉ lệ thiếu việc làm năm 2009 ở thành thị là 3.33%, nông thôn là 6.51% theo số liệu của tổng cục thống kê. Có thể dễ dàng nhận thấy tỉ lệ thất nghiệp tuy đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. Nguyên nhân của thực trạng này là do hàng năm số người vào độ tuổi lao động nhiều trong khi số việc làm cung cấp cho người lao động còn ít, không đáp ứng đủ. Bên cạnh đó chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được cán bộ gắn bó với công việc, đặc biệt là trong tình hình lạm phát đang diễn ra ngày càng căng thẳng và khó kiểm soát được. Có thể nói tiền lương của nhiều cán bộ đặc biệt trong tình trạng bão giá hiện nay thì không đủ để chi tiêu. Chính vì thế mới có hiện tượng một số bộ phận nhân viên thôi việc ở các doanh nghiệp, nhà nước trong nước để đi làm việc cho các công ty nước ngoài. Hoạt động đưa người việt nam đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài còn nhiều bất cập trong chất lượng cũng như hiệu quả. Thứ nhất, thị trường lao động của chúng ta chủ yếu tập trung vào một số thị trường cũ như Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc…; trong đó một loạt các thị trường tiềm năng có thu nhập cao khác như Mỹ, Anh, Pháp thì chúng ta vẫn chưa chạm tới được. Nếu có thì cũng chỉ là một vài doanh nghiệp ký kết hợp đồng trực tiếp, còn thực tế thì Việt Nam chưa có một cung chính thức nào. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta mới chỉ đang tìm hiểu các thị trường đó một cách dè dặt, chưa có những chính sách mang tính chiến lược, bứt phá… Thứ hai, lao động của chúng ta xuất khẩu chủ yếu là lao động thủ công, tay nghề chưa cao. Theo báo cáo của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo xuất khẩu đi các nước của nước ta chỉ đạt 15%. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao động, nguồn thu cho ngân sách và cho chính bản thân người lao động. Ngành nghề mà chúng ta có sử dụng nhiều lao động xuất khẩu cũng chỉ hạn chế như ngành xây dựng, vận tải biển, khán hộ công và giúp việc gia đình, thuyền viên tàu cá, dệt may…; trong khi đó các ngành nghề đòi hỏi tay nghề và trình độ như các ngành công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng…thì số lượng lao động của Việt Nam còn khiêm tốn. Một bộ phận người lao động chưa tiếp cận đến các kênh thông tin chính thức, không nắm rõ các thông tin cần thiết như địa chỉ liên hệ ở nước ngoài khi cần giúp đỡ, vấn đề thanh lý hợp đồng khi về nước.Nhiều trường hợp người lao động không thể giao tiếp do bất đồng ngôn ngữ. Đa số người lao động phải vay mượn để chi trả các khoản liên quan đến việc chuẩn bị đi xuất khẩu lao động. Người lao động phải nộp chi phí chính thức cao hơn so với quy định ở một số thị trường có thu nhập cao như Đài Loan, Nhật Bản. Một bộ phận người lao động phải về nước trước hạn hay phải làm những công việc khác với thỏa thuận theo hợp đồng. Mức lương thấp hơn so với lao động là người bản địa hay lao động làm thuê đến từ các quốc gia khác.Lao động Việt Nam cũng gặp khó khăn trong việc thích nghi với điều kiện sống và làm việc ở nước ngoài chủ yếu do yếu ngoại ngữ. Một bộ phận không nhỏ người lao động về nước không thanh lý hợp đồng với doanh nghiệp dịch vụ. Một bộ phận đáng kể người lao động đi xuất khẩu lao động trở về gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm. Sự hỗ trợ của địa phương và doanh nghiệp xuất khẩu lao động đối với lao động trở về còn hạn chế. Một bộ phận người đi xuất khẩu lao động không có khả năng hoàn vốn.
4. Dân số:
Dân số toàn quốc năm 2005 là 71995,1 nghìn người đã tăng lên 86024,6 nghìn người theo số liệu của tổng cục thống kê. Cũng theo số liệu của tổng cục thống kê thì tỉ lệ nam, nữ ngày càng mất cân bằng, tỉ lệ nam giới gia tăng ngày càng nhiều. Dân số nước ta vẫn tiếp tục tăng song đã hạn chế được tốc độ tăng từ 1,92%(1990) xuống còn 1.06%(2009) do các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình đã tác động được phần nào tuy nhiên tỉ lệ tăng dân số như thế này vẫn còn ở mức cao. Đặc biệt là tốc độ tăng dân số của thành thị đang có xu hướng tăng trong khi nông thông lại có xu hướng giảm. Dân số thành thị tốc độ tăng từ 2.41(1990) lên 3.21(2009) còn nông thôn thì từ 1.8(1990) xuống 0.18(2009). Dân số Việt nam mật độ dân số vẫn còn phân bố không đều giữa các vùng, đông đúc ở đồng bằng và thưa thớt ở miền núi, trung du. Chính sách kế hoạch hóa gia đình vẫn chưa phát huy được hết tác dụng của mình, tí lệ sinh con thứ ba vẫn còn cao.
5. Môi trường:
Hiện nay tình hình môi trường việt nam đang báo động. Việt Nam xếp hạng thứ năm khu vực châu á thái bình dương về mức độ ô nhiễm khói bụi ở thành phố đông dân, nồng độ khí thải tăng cao và nhanh, hiện tượng những dòng sông cục bộ chết, việc xuất hiện các làng ung thư… Con người việt nam còn thiếu ý thức trong việc bảo vệ môi trường, ví dụ như đơn giản việc vứt rác bừa bãi. Điển hình ta có thể thấy rõ điều này sau đợt đại lễ 1000 năm thăng long, sau mỗi sự kiện trôi qua thì để lại ven đường là những bãi rác chất đống trải khắp con đường, cây cối bị giẫm nát thật là một cảnh tượng hãi hùng. Các cánh rừng đầu nguồn, cây quý hiếm, động vật quý hiếm bị khai thác, bắt giữ ngày càng nhiều. Thoái hóa đất là xu thế phổ biến từ đồng bằng đến trung du, miền núi. Thực tế cho thấy các loại đất bị thoái hóa chiếm hơn 50% diện tích tự nhiên của cả nước. Đất có độ dốc lớn và đất trống đồi núi trọc, đặc biệt là ỏ tây nguyên và tây bắc dễ bị xói mòn khi có mưa lớn. Nhiễm phèn và nhiễm mặn đã xảy ra nghiêm trọng ở vùng đồng bằng sông cửu long. Việc sử dụng các hóa chất trong nông nghiệp như phân hóa học và thuốc trừ sâu tuy thấp nhưng không đúng kĩ thuật là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường cục bộ ở một số địa phương và có xu hướng ngày càng gia tăng. Môi trường nước ở việt nam ngày càng ô nhiễm trầm trọng. Nguyên nhân là do hầu hết nước thải sinh hoạt ở các đô thị và 90% nước thải từ các cơ sở công nghiệp chưa được xử lí xả trực tiếp vào môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước ở một số địa phương. Vùng hạ lưu các con sông hầu hết đều bị ô nhiễm ví dụ như sông cấm, sông đồng nai,,… Nước biển ven bờ đã bắt đầu có dấu hiệu ô nhiễm. Hàm lượng chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, kim loại nặng, hóa chất bảo vệ thực vật một số nơi đã vượt mức tiêu chuẩn cho phép. Nước ngầm đang có xu hướng cạn kiệt dần về lượng ,có dấu hiệu ô nhiễm và sự suy giảm về chất. Bên cạnh đó do chất lượng yếu kém mà việt nam còn gây ra nhiều sự cố về môi trường gây ra thiệt hại hết sức nặng nề. Do ý thức không giữ gìn của người dân việt nam mà lũ lụt, hạn hán, cháy rừng càng ngày diễn ra càng nhiều và mức độ tàn phá ngày càng nghiêm trọng. Ngoài ra sự cố tràn dầu vẫn tiếp tục xảy ra mà chưa có sự ngăn chặn triệt để. Năm 1998 có 6 vụ tràn dầu với tổng lượng dầu tràn gần 13000 tấn, năm 1999 là 10 vụ với 8000 tấn dầu, trong những năm 2000,2001,2002 mỗi năm xảy ra 1-3 vụ với tổng lượng dầu tràn từ 24-800 tấn.
Nói tóm lại, việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn chậm, thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi đã đến mức báo động. Chưa chủ động nghiên cứu, dự báo đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quả của thiên tai còn nặng nề.
6. Giao thông:
Tình trạng giao thông ở việt nam đang ở mức nghiêm trọng và có nhiều những hạn chế. Tình trạng tai nạn giao thông ở việt nam diễn ra thường xuyên và tỉ lệ người chết vì tai nạn giao thông ở việt nam chiếm tỉ lệ cao. Tình trạng ùn tắc giao thông thường xuyên diễn ra nhất là ở các đô thị lớn nơi có lượng dân cư đông ví dụ như hà nội, hồ chí minh. Nguyên nhân của ùn tắc giao thông là do lượng dân số tập trung ở thành thị quá đông, hiểm nhiên mật độ phương tiện tham gia giao thông cũng tăng trong khi đó cơ sở vật chất giao thông của việt nam còn kém, chưa đồng bộ, nhiều con đường công trình giao thông còn trong tình trạng dở dang và chưa đi vào sử dụng, mạng lưới giao thông còn ít và chật hẹp, chưa đủ tiêu chuẩn chất lượng và kĩ thuật. Bên cạnh đó, một vấn đề gây bức xúc trong dư luận đó chính là không nghiêm minh trong việc xử phạt và mức phạt chưa đủ mạnh đã làm cho người tham gia GT không chấp hành tốt luật GT. Và bản thân cánh sát GT cũng không muốn xử phạt nghiêm minh, bởi làm như vậy ngươì tham gia GT sẽ cố gắng học luật cho tốt và chấp hành tốt luật trong khi tham gia GT và như vậy cảnh sát GT sẽ hết cửa để kiếm chác qua những vụ vi phạm luật GT và TNGT. Trên thực tế và tính toán hiện nay mỗi tuần kho bạc Nhà nước thu từ 6 đến 7 tỷ đồng tiền phạt từ các lỗi GT của người tham gia GT, thì cũng có đến 12 đến 14 tỷ đồng ngoài khoản tiền phạt đó rơi vào túi cảnh sát GT ở các cấp. Được biết các cảnh sát viên được bố trí vào các điểm chốt, các cung đường để thực hiện việc giám sát và xử phạt đều phải có giá của nó, theo các cảnh sát viên cho biết họ phải mất hàng chục triệu đồng cho đến hàng trăm triệu động đút lót cho cấp trên có thẩm quyền để được phân bổ về các chốt, các cung đường, giá của mỗi chốt và cung đường tuỳ theo các vị trí. Bởi vậy, nên họ phải cố gắng bằng mọi cách để thu lại số vốn của mình đã bỏ ra và cống nộp cho cấp trên của họ, nên mới có tình trạng mãi lộ cảnh sát GT như bấy lâu. Một thực tế đã qua, tình trạng thu giữ phương tiện của người vi phạm luật GT đã gây ra không ít bức xúc cho người dân, chúng ta đều biết ô tô xe máy là phương tiện làm ăn sinh sống và đi lại nó cũng là một tài sản lớn của công dân, vì khi vi phạm luật hay do không chịu mãi lộ mà bị thu giữ thì coi như tàn bởi khi thu giữ phương tiện, họ đưa về chất thành đống giữa trời mua nắng, họ cho người đổi hay tháo các bộ phận quan trọng của xe….bởi vậy khi không may bị vi phạm là bằng mọi cách bỏ tiền ra mãi lộ CSGT để không phải bị thu xe mà thu xe coi như mất xe bởi các tệ nạn trên. Đặc biệt, giao thông việt nam có nhiều bất cập như hiên nay là do việc giáo dục ý thức người dân về luật lệ an toàn giao thông kém. Chính vì vập người dân coi thường luật lệ giao thông.
7.Y tế:
Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Hiện tượng các y tá, bác sĩ tay nghề còn kém vẫn còn nhiều ảnh hưởng đến chất lượng của dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Đặc biệt hiện tượng chảy máu chất xám về nguồn nhân lực vẫn diễn ra. Theo đó, những bác sĩ tốt thường tập trung ở TƯ làm việc trong khi đó nguồn nhân lực về bác sĩ tay nghề cao ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng sa còn hạn chế. Tình trạng mất y đức của nghề y còn tồn tại trong y tế. Các dịch vụ y tế còn ít không đủ để cung cấp cho nhu cầu của con người. Bên cạnh đó người dân thường tập trung khám bệnh ở những bệnh viện trung tâm. Chính điều đó gây ra nguyên nhân quá tải bệnh nhân ở các bệnh viện tuyến TƯ.
III/ Giải pháp cho các vấn đề xã hội ở việt nam hiện nay:
1. xóa đói giảm nghèo:
Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm cùng kiệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và cách xoá đói, giảm cùng kiệt gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xoá đói, giảm cùng kiệt bền vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát cùng kiệt vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đặc biệt về trợ giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất sản xuất; trợ giúp đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; có chính sách khuyến khích mạnh các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ giàu đầu tư vốn phát triển sản xuất ở nông thôn, nhất là nông thôn vùng núi. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tham gia công cuộc xoá đói, giảm nghèo.

2. giáo dục và đào tạo:
Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hoá đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề. Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt đối với người bị thu hồi đất; nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo. Quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.

Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài chính. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm định và công bố công khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ sở giáo dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra; kiên quyết khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo.


3. lao động và việc làm:
Trên cơ sở đầu tư phát triển kinh tế, phải hết sức quan tâm tới yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm cho người lao động; tạo điều kiện giải quyết ngày càng nhiều việc làm, đặc biệt là cho nông dân. Hoàn thiện pháp luật về dạy nghề; ban hành chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, đào tạo giáo viên, hỗ trợ cơ sở hạ tầng… nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề. Đổi mới cách, nâng cao chất lượng dạy và học, gắn dạy nghề với nhu cầu thực tế. Đẩy mạnh và chấn chỉnh công tác quản lý, tổ chức xuất khẩu lao động.
Kiên quyết khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; gắn cải cách tiền lương với sắp xếp, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị. Gắn tiền lương của người lao động với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chăm lo bảo hộ lao động; cải thiện điều kiện làm việc; hạn chế tai nạn lao động; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật lao động, đưa việc thi hành pháp luật lao động vào nền nếp; xây dựng quan hệ lao động ổn định, hài hoà, tiến bộ.
4. dân số:
Thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì mức sinh hợp lý, quy mô gia đình ít con. Có chính sách cụ thể đảm bảo tỉ lệ cân bằng giới tính khi sinh. Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia của toàn xã hội vào công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình. Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, giảm mạnh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số.
5. môi trường:
Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của cán bộ lãnh đạo các cấp về bảo vệ môi trường. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng và tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi; xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường.
Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án đầu tư. Các dự án, công trình đầu tư xây dựng mới bắt buộc phải thực hiện nghiêm các quy định bảo vệ môi trường. Quản lý, khai thác hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo cân bằng sinh thái. Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo tác động của biến đổi khí hậu đối với nước ta; thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu; tích cực tham gia, phối hợp cùng cộng đồng quốc tế hạn chế tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất. Tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng hệ thống dự báo, thông báo thiên tai. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao ý thức phòng, chống thiên tai trong mỗi người dân, nhất là nhân dân vùng thường xảy ra thiên tai. Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các địa phương phải chú ý đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng nơi neo đậu tàu thuyền tránh bão, hệ thống thoát lũ, phương tiện liên lạc, cứu hộ, cứu nạn ở vùng thường xuyên bị thiên tai, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra.
6. giao thông:
Huy động cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành triển khai tích cực, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu tai nạn giao thông. Nâng cao hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật giao thông. Tăng cường hạ tầng kỹ thuật, phương tiện giao thông công cộng, năng lực tổ chức giao thông; thực hiện phương án điều tiết hợp lý cơ cấu và quản lý chất lượng các phương tiện giao thông để giảm tới mức thấp nhất tai nạn giao thông.

7. y tế:
Chú ý nhiều hơn công tác y tế dự phòng và chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao năng lực của bệnh viện tuyến huyện và tuyến tỉnh, hiện đại hoá một số bệnh viện đầu ngành. Tăng đầu tư nhà nước đồng thời với đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động y tế. Nâng cao y đức, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực trong hoạt động khám, chữa bệnh. Phát triển mạnh công nghiệp dược; quản lý chặt chẽ thị trường thuốc chữa bệnh. Bảo đảm cho người có bảo hiểm y tế được khám, chữa bệnh thuận lợi; mọi công dân khi có nhu cầu và khả năng đều được đáp ứng dịch vụ y tế chất lượng cao. Tiếp tục kiềm chế và giảm mạnh lây nhiễm HIV. Làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm. Thực hiện tốt chính sách khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em và người dân tộc thiểu số, chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi.

Kết luận
Giải quyết các vấn đề xã hội luôn luôn là một nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt quá trình tiến lên xã hội chủ nghĩa của nước ta. Nó là một nhiệm vụ mang tính chiến lược mà mỗi bản thân một người phải tự ý thức và chung tay thực hiện với mọi người.
Tài liệu tham khảo:
1. văn kiện đại hội đảng XI
2. văn kiện đại hội đảng X
3. trang web tổng cục thống kê:
4.
5.
6.
7. giáo trình đường lối đảng cộng sản việt nam
8.
 

kaitoukjdz

New Member
Re: Tiểu luận: Những vấn đề xã hội bức xúc ở việt nâm hiện nay là gì? phân tích thực trạng một số vấn đề tiêu biểu.

cho mình xin tài liệu này nhé
 

daigai

Well-Known Member
VỪa up lại, bạn tải tại đây
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top