daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
những vấn đề lý luận về nguyên tắc quyền định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.
1.1 Khái niệm và ý nghĩa.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) là nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam, theo đó, đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết định quyền và lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền tự định đoạt của họ trong tố tụng dân sự.
Mặc dù quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là sự thể hiện tự do ý chí của đương sự trong việc giải quyết tranh chấp, được nhà nước ủng hộ và mong muốn đương sự sử dụng triệt để. Tuy vậy, quyền tự định đoạt luôn trong giới hạn ở các trường hợp được pháp luật cho phép. Ví dụ: nguyên đơn được yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng với biện pháp khẩn cấp tạm thời có nguy cơ gây thiệt hại cho người khác thì phải kí quỹ một giá trị tài sản tương ứng như trường hợp yêu cầu cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; hay các bên không được tự thỏa thuận giải quyết đối với các vi phạm đạo đức, pháp luật hay xâm phạm tới tài sản của nhà nước…
Do giới hạn của bài tập chỉ được hoàn thành trên phạm vi tối đa 10 trang giấy nên em xin chỉ đưa ra ý nghĩa quan trọng nhất của nguyên tắc: khẳng định pháp luật thực sự đã ghi nhận và bảo đảm cho các đương sự có điều kiện thực hiện quyền tự định đoạt của mình khi tham gia tố tụng.
1.2 Cơ sở xây dựng nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
 Cơ sở lý luận: quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong mối quan hệ dân sự (theo PGS-TS Phạm Hữu Nghị). Trong TTDS, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự thực hiện ở khả năng những người tham gia tố tụng tự do định đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Cho nên, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự là các quyền được quy định trong quan hệ pháp luật hình thức, được phái sinh bởi các nguyên tắc trong giao lưu dân sự do pháp luật nội dung quy định. Bên cạnh đó, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được đặt ra do yêu cầu bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự.
 Cơ sở thực tiễn: các vụ việc hay tranh chấp trong lĩnh vực dân sự không đặt cá nhân, tổ chức vào nguy cơ bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe hay tài sản mức độ cao như trong hình sự, do vậy, việc tuyệt đối hóa quyền lực của cơ quan tư pháp lên quan hệ dân sự là không thực sự cần thiết. Mặt khác, bản thân Tòa án trong công tác thực thi pháp luật của mình còn thiếu kinh nghiệm, dẫn tới hợp lý nhưng chưa thấu tình, trong khi dân tộc ta rất nặng chữ nghĩa, vì vậy, với nguyên tắc này, nhà nước đang âm thầm khuyến khích nhân dân phát huy truyền thống đoàn kết, giúp đỡ nhau cũng như yêu cầu Tòa án cần có trách nhiệm cao hơn trong việc bảo đảm để nhân dân được thực hiện quyền tự định đoạt một cách trọn vẹn.
1.3 Mối liên hệ giữa nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự với các nguyên tắc khác.
Trong các nguyên tắc được nêu ra trong Bộ luật TTDS, cá nhân em rất quan tâm tới sự kết hợp giữa nguyên tắc này với ba nguyên tắc quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4), bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9) và quyền được Tòa án chấp nhận kết quả hòa giải giữa các bên (Điều 10). Các nguyên tắc có vai trò hỗ trợ nhau tạo thành một bệ đỡ vững chắc củng cố tinh thần cho các bên khi lựa chọn giải quyết vụ việc bằng con đường tố tụng tại tòa án. Thực tế, trước đây pháp luật chỉ mới quy định ‘ẩn” quyền tự định đoạt của đương sự dưới ba nguyên tắc này. Vì: đây chính là các biểu hiện cơ bản của quyền tự định đoạt của đương sự. Tuy vậy, có lẽ thực tế áp dụng cho thấy sự rải rác quyền năng khiến pháp luật không đạt được mục tiêu đương sự chủ động trong việc giải quyết vụ việc trước tòa án. Cho nên trong Bộ luật TTDS mới này, các nhà lập pháp chính thức cụ thể hóa nguyên tắc này thành Điều 5. Như vậy, đương sự có căn cứ và cơ sở cho yêu cầu của mình, đồng thời tòa án cũng buộc phải đưa ra các quyết định bảo vệ và hỗ trợ đương hiện quyền tự định đoạt của mình.
II. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 2004.
2.1 Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự.
Quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện của nguyên đơn bao gồm: quyền yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc, đề nghị tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp để hạn chế tối đa thiệt hại hay rủi ro, yêu cầu tòa án đưa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng (Điều 58, Điều 59 Bộ luật TTDS)… Như vậy, việc thể hiện của nguyên tắc qua hàng loạt các hoạt động này thực ra không còn mới. Vì đây là tinh thần chung của pháp luật TTDS từ rất lâu.
Theo Điều 60 Bộ luật TTDS, bị đơn cũng có quyền bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn, bằng việc khẳng định và đưa ra bằng chứng chứng minh yêu cầu khởi kiện về mặt pháp lý cũng như thực tế là không có căn cứ, thậm chí, bị đơn có thể đưa ra bằng chứng chứng minh về tính không hợp pháp của việc giải quyết vụ việc dân sự, về sự vi phạm thủ tục tố tụng trong việc thụ lý và giải quyét vụ án. Như vậy, lý thuyết mà nói, bị đơn không phải e sợ khi nhận được thông báo về việc bị khởi kiện nếu bản thân đang nắm giữ lẽ phải. Bên cạnh đó, chúng ta biết rằng pháp luật không tự nhiên vận động, mà tất cả đều do con người thi hành. Vì vậy, có những câu chuyện đằng sau những quy phạm này còn đáng được quan tâm hơn, chúng ta sẽ đề cập chi tiết hơn ở phần tới của bài.
Về phía người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan, họ có quyền lựa chọn sát nhập yêu cầu của mình vào vụ án để tòa án đồng thời giải quyết hay tự đứng đơn khởi kiện độc lập. Đây là quy định rất có ý nghĩa trong thực tế khi vấn đề không quá lớn và việc kết hợp giúp giải quyết triệt để các tranh chấp còn tồn tại, không gây tốn kém chi phí mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ vẫn được pháp luật nhanh chóng bảo vệ.
2.2 Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu và thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự.
Cơ sở pháp lý của việc thay đổi, bổ sung hay rút yêu cầu: Điều 180, Điều 181 Điều 187, Điều 218, Điều 219, Điêu 220 BL TTDS.
Nếu việc sử dụng quyền khởi kiện gắn liền với việc xếp hình một tòa tháp nhọn, mà đỉnh tháp chỉ đủ chỗ cho một người được tòa xử thắng, vì vậy, luôn có người phải rớt lại, thì việc thay đổi, rút hay bổ sung yêu cầu và thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự cũng giống như việc hai bên đang tìm cách xây lại tòa tháp mái bằng để đủ chỗ để chân cho cả hai bên. Vì vậy, quyết định này hết sức quan trọng đối với tiền trình tòa án giải quyết vụ việc. Ngay lập tức tòa án buộc phải thừa nhận sự thỏa thuận và ra quyết định đình chỉ vụ án khi bên nguyên đơn phá viên gạch đầu tiên đã dùng xây tháp, khi đó, tòa tháp sụt đổ phù hợp nguyên lý tự nhiên. Đó chính là quyết định rút đơn khởi kiện của đương sự.
Khi đó, nếu bị đơn không phá viên gạch mình đã đặt vào khi đưa ra yêu cầu phản tố, Tòa án công nhận bị đơn chuyển hóa thành nguyên đơn. Nếu bị đơn lựa chọn ngược lại, tòa tháp lúc ấy chỉ còn được xây bởi viên gạch của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (nếu có). Họ trở thành nguyên đơn nếu không rút đơn yêu cầu.
Như vậy, tòa án cho phép đương sự có quyền ngang nhau trong việc định đoạt mức độ tham gia của cá nhân trong quá trình yêu cầu giải quyết vụ án. Cho phép đương sự có quyền thay đổi quyết định nếu trong thời hiệu, nếu chứng minh được các tình tiết mới làm thay đổi cơ bản hướng giải quyết vụ án…
Tuy vậy, kiện tụng không phải là một trò chơi, tham gia hay không tùy thích, vì ở đó, hiện diện quyền lực của nhà nước. Cho nên, trượt theo quy trình tố tụng, quyền tự định đoạt dần hẹp lại. Ví dụ: nguyên đơn khi muốn rút đơn trong giai đoạn phúc thẩm buộc phải nhận được sự đồng ý của bị đơn trong khi tính từ giai đoạn sơ thẩm đổ về trước, quyền năng này của nguyên đơn không bị giới hạn.
Có quan điểm cho rằng việc nguyên đơn cần có sự đồng ý của bị đơn mới được rút đơn khởi kiện trong giai đoạn phúc thẩm là phần nào hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự, cần được sửa đổi hay bãi bỏ (Nguyễn Nữ Giang Anh - luận văn tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội năm 2010). Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân em, thời gian kiện tụng để tới bước phúc thẩm không phải là ngắn một ngày hai ngày, chủ thể bị kéo vào vụ việc với tư cách bị đơn đã gặp rất nhiều gian nan. Nay khi nhận thấy quyết định của tòa án không được như ý định khởi kiện, nguyên đơn tùy ý rút đơn thì bị đơn phải chấp nhận những thiệt hại và tổn thất của cá nhân thời gian qua một cách vô lý? Việc quy định bị đơn phải đồng ý thì nguyên đơn mới được rút đơn khởi kiện trong giai đoạn này là hoàn toàn hợp lý để nguyên đơn nghiêm túc và có trách nhiệm cao trong quyết định khởi kiện, quyết định yêu cầu phúc thẩm và quyết định rút đơn khởi kiện của chính mình, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
2.3 Nguyên tắc quyền tự định đoạt với việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.
Đương sự là người hiểu hơn ai hết nhu cầu, nguyện vọng của mình, cũng như mục đích khi khởi kiện, vì vậy, Tòa án không can thiệp quá sâu vào việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự mà chỉ đưa ra các quy định mang tính chất khung cho việc đương sự lựa chọn nhằm đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật tố tụng cũng như bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt. Ví dụ: đối với người thay mặt thì không được là đương sự trong cùng một vụ án với người được thay mặt mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện… Và tòa án sẽ xuất hiện chỉ định người thay mặt cho đương sự trong trường hợp đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện. Đây là quy định cho thấy sự linh hoạt của Bộ luật TTDS, vì rõ ràng đây là lúc đương sự cần được hỗ trợ pháp lý nhiều nhất để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp do tự bản thân họ đã vô tình đánh mất quyền năng đầy đủ của một đương sự.
Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án của đương sự: theo Điều 243 Bộ luật TTDS thì đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm, nếu quá thời hạn, đương sự vẫn còn cơ hội thực hiện quyền kháng cáo của mình (Điều 247 Bộ luật TTDS).
Đây là lý do để cá nhân em cho rằng quy định này công bằng và không gây ra lúng túng trong thực tiễn thi hành và phù hợp với việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự so với thủ tục giám đốc thẩm. Vì bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm có thể bị thay đổi sau giám đốc thẩm, liên quan trực tiếp tới quyền và lợi ích gắn liền với chính đương sự, nhưng đương sự không được quyền quyết định việc có hay không thủ tục giám đốc thẩm đối với việc giải quyết vụ việc này
2.4 Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm quyền tự định đoạt cho đương sự trong tố tụng dân sự.
Trước đây, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự chỉ ghi nhận “chìm” dưới các nguyên tắc khác (đã nói tới tại phần I), nay khi được cụ thể hóa vào điều luật cho thấy nhà nước ta đang không chỉ ngày càng quan tâm và ủng hộ việc các đương sự tìm cách hóa giải tranh chấp bằng tình cảm, mà còn chính thức yêu cầu Tòa án có trách nhiệm cao hơn nữa để đương sự thực hiện quyền định đoạt của mình hiệu quả trong quá trình tố tụng.
III. KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ.
3.1 Pháp luật TTDS cần quy định bổ sung và hướng dẫn chi tiết các quy định trong Bộ luật TTDS đang gây lúng túng trong việc áp dụng.
 Địa vị pháp lý của đương sự và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Tư cách pháp lý của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong trường hợp chủ thể có yêu cầu độc lập chưa được làm rõ trong pháp luật tố tụng dân sự. Việc gắn liền quyền và nghĩa vụ của họ với nguyên đơn hay bị đơn em cho rằng không hợp lý vì bản thân họ khi tham gia vào vụ kiện không phải hầu hết các trường hợp đều là có quan hệ với một trong hai bên, việc quy định như vậy khiến cho tư cách pháp lý của họ không rõ ràng nên khiến cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không mấy mặn mà với việc tham gia vụ kiện với tư cách này, mà thường “bấm bụng” khởi kiện vụ việc của mình. Như vậy, pháp luật đã không thực hiện được mục đích khuyến khích các chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm hại lựa chọn việc tham gia giải quyết trong cùng một vụ việc có liên quan đang được giải quyết.
 Vấn đề chuyển hóa từ vụ việc dân sự sang vụ án dân sự. Hiện nay, pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định về vấn để này, cá nhân em cho rằng nếu cùng thực hiện nguyên tắc tiết kiệm như lời Bác thì nên sớm đưa quy định về vấn đề chuyển hóa vụ việc sang vụ án dân sự vào pháp luật tố tụng dân sự. Như vậy, các bên trong tranh chấp sẽ tiết kiệm được thời gian tố tụng và cả chi phí theo kiện do không còn phải đợi hết thủ tục giải quyết vụ việc dân sự rồi mới khởi kiện được ra tòa như thực tế hiện nay. Giúp người bị xâm hại lợi ích nhanh chóng lấy lại thế chủ động khi bất ngờ vụ việc dân sự phát sinh tranh chấp giữa các bên.
 Vấn đề thời điểm phản tố có hiệu lực. Đây là một trong các quy định thể hiện sâu sắc quyền tự định đoạt của bị đơn trong việc có hay không chống lại yêu cầu của nguyên đơn để bảo vệ mình. Tuy nhiên, pháp luật TTDS lại không cụ thể thời hạn có hiệu lực của đơn phản tố, nên có tòa án thì chấp nhận đơn phản tố tại phiên tòa sơ thẩm nhưng có tòa án lại chỉ chấp nhận nếu đơn được gửi tới trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Như vậy, các tòa án đã có những cách hiểu không thống nhất về cùng một điều luật, nếu nhân dân biết điều này, liệu có phải lòng tin của nhân dân vào những người thi hành pháp luật bị suy giảm
3.2 Khắc phục: Tòa án giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự.
Việc Tòa án giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự thường xảy ra ở các vụ án đòi nhà cho thuê, cho ở nhờ hay người đang chiếm hữu nhà bất hợp pháp mà những người này đã cải tạo, sửa chữa, nâng cấp nhà họ đang ở. Tòa án buộc người đang chiếm hữu nhà phải trả lại nhà và người được lấy lại nhà phải trả lại cho người đang chiếm hữu nhà một khoản tiền mà họ đã phải bỏ ra để sửa chữa, nâng cấp nhà hay xây dựng, dù những người đang chiếm hữu nhà không yêu cầu khoản tiền đó mà chỉ có một yêu cầu: không trả lại nhà.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top