style_more

New Member

Download miễn phí Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ mới - Tiếp cận từ thực tiễn thế giới





Trong ngắn hạn trước mắt, nền kinh tế Việt Nam vẫn cần định hướng
xuất khẩu, tiếp tục là động cơ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, vì
đây là giai đoạn phát triển tuần tự mà nhiều nước phải trải qua trước khi đạt
tới trình độ một nền kinh tế có cơ cấu đa dạng dựa vào thị trường nội địa. Tuy
nhiên, song song với quá trình đó, cũng cần chú trọng phát triển thị trường
trong nước, coi đây là một động lực "nội sinh" giúp nền kinh tế có thể kháng
chịu tốt hơn trước những biến động bất thường của kinh tế thế giới. Để có thể
đạt được mục tiêu này thì rất cần một giai đoạn tập trung ưu tiên hơn cho
phát triển hạ tầng thương mại, các ngành phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong
nước, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tăng cường quản lý chất lượng hàng
hoá-dịch vụ.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CƠ CẤU KINH TẾ
CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI - TIẾP CẬN
TỪ THỰC TIỄN THẾ GIỚI
CVC. Nguyễn Hữu Hải
Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế Văn phòng Trung ương Đảng
1-Tái cấu trúc nền kinh tế đang là yêu cầu cấp thiết đối với các nền
kinh tế trên thế giới hiện nay.
Cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính vừa qua dẫn đến suy thoái kinh tế
với mức độ và quy mô lớn trên phạm vi toàn cầu hiện nay vừa mang tính cơ
cấu vừa mang tính thể chế đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với việc tái cơ cấu nền
kinh tế ở các nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cao hơn và hướng tới
sự phát triển bền vững hơn ở thời kỳ sau khủng hoảng và suy thoái. Khác với
các đợt tái cơ cấu kinh tế sau khủng hoảng trước đây, đợt tái cơ cấu kinh tế
trên thế giới trong và sau khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu hiện nay
đang diễn ra theo một số xu hướng cơ bản sau :
Thứ nhất, xanh hoá nền kinh tế theo hướng giảm dần các ngành, công
nghệ tiêu hao nhiều năng lượng, tài nguyên là một hướng ưu tiên trong kế
hoạch tái cơ cấu kinh tế ở nhiều nước, bởi khủng hoảng kinh tế- tài chính
toàn cầu cùng với những thách thức về an ninh tài chính, lương thực, năng
lượng1 và biến đổi khí hậu làm bộc lộ rõ tính thiếu bền vững của mô hình và
cách "tăng trưởng trước, làm sạch sau", bởi càng tăng trưởng nhanh
càng tiêu hao nhiều tài nguyên, năng lượng và tổn hại môi trường. Do đó, các
gói kích thích kinh tế cũng như chiến lược phát triển dài hạn của một số nước
(Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…) dành ưu tiên cao cho chuyển
dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành công nghiệp "xanh". Đầu tư phát triển
xanh hiện chiếm tới 14% tổng giá trị kích thích kinh tế toàn cầu2 (ví dụ Mỹ
đầu tư khoảng 100 tỉ USD trong 4 năm cho phát triển nhà ở sử dụng hiệu quả
năng lượng; Trung Quốc đầu tư vào năng lượng thay thế nhằm tạo 1 triệu
việc làm; Ấn Độ đầu tư năng lượng sinh học tạo 900 nghìn việc làm đến năm
2025, v.v…). Các nước chú trọng sử dụng các chính sách đòn bẩy, đặc biệt là
thuế và mua bán hạn ngạch khí thải, để khuyến khích chuyển dịch cơ cấu sản
1 Thách thức đối với khủng hoảng 3F
2 Ước tính của Viện nghiên cứu toàn cầu của Ngân hàng HSBC.
xuất và tiêu dùng sang các ngành, lĩnh vực và sản phẩm xanh (ví dụ, để
khuyến khích tiết kiệm năng lượng trong giao thông, nhiều nước hiện đang áp
dụng thuế nhiên liệu, hạn ngạch giấy phép giao thông, giảm hay miễn thuế
phương tiện tiết kiệm nhiên liệu).
Thứ hai, khủng hoảng kinh tế- tài chính toàn cầu đã làm bộc lộ rõ khiếm
khuyết của mô hình kinh tế-tài chính tự do Âu-Mỹ, buộc nhiều nước phải có
những điều chỉnh khắc phục các khiếm khuyết theo hướng tiết kiệm nhiều
hơn, cân bằng hơn phát triển tài chính và nền kinh tế thực, tự do hoá và vai
trò điều tiết của nhà nước. Qua xử lý khủng hoảng vừa qua của nhiều nước
cho thấy mô hình "CNTB xã hội nhà nước" được quan tâm hơn, tái cơ cấu
kinh tế đi đôi với cải cách thể chế, tăng cường vai trò điều tiết của Nhà nước
nhằm khắc phục khiếm khuyết của thị trường (ví dụ tăng cường quy định
quản lý kinh tế- tài chính, quốc hữu hoá nhiều tập đoàn lớn, v.v…), nâng cao
năng lực theo dõi và ứng phó với khủng hoảng, chú trọng giải quyết các vấn
đề an sinh xã hội (tạo việc làm, giáo dục, y tế...).
Thứ ba, nhiều nước, đặc biệt là các nền kinh tế hướng xuất khẩu, đang
tái cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển hài hoà cả thị trường trong nước và
xuất khẩu. Cuộc khủng hoảng lần này cho thấy phát triển dựa quá nhiều vào
xuất khẩu và đầu tư nước ngoài dễ tổn thương trước biến động bên ngoài.
Nhiều ý kiến cho rằng các nền kinh tế nhỏ ở Đông Á có thể tiếp tục dựa vào
xuất khẩu, nhưng các nền kinh tế lớn cần có mô hình phát triển mới cân bằng
hơn giữa xuất khẩu và thị trường nội địa bởi Đông Á có thể không còn "bán
nhiều, mua ít" như trước do các nước phương Tây tiết kiệm hơn. Hội đồng
Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) khuyến nghị để điều chỉnh sang
mô hình phát triển hướng về như cầu thị trường nội địa nhiều hơn, Châu Á
cần đầu tư nhiều cho việc củng cố hệ thống an sinh xã hội để người dân an
tâm về tương lai, từ đó tiết kiệm ít hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Thực tế trong
các gói kích cầu kinh tế, nhiều nước Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc...) đều
dành ưu tiên cao hơn cho giáo dục, y tế và an sinh xã hội. Tuy nhiên, việc
phát triển hướng nhiều hơn vào thị trường nội địa có thể làm gia tăng chủ
nghĩa bảo hộ, gây khó khăn cho quá trình tự do hoá thương mại quốc tế.
Thứ tư, với việc những yếu kém về quản lý, giám sát tài chính là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng kinh tế- tài chính toàn cầu, vấn đề cải
cách hệ thống tài chính-ngân hàng là một trọng tâm trong tái cơ cấu kinh tế
của nhiều nước, nhất là Mỹ và Châu Âu. Các đề xuất về cải cách tài chính-
ngân hàng gần đây chủ yếu tập trung quy định chặt chẽ toàn bộ hệ thống tài
chính, hạn chế tỉ lệ đòn bẩy, tăng cường giám sát các định chế tài chính phi
ngân hàng có chức năng hoạt động ngân hàng3. Các nước G-8 đã thông qua
Khung khổ Lê-xê (Lecce) để tăng cường phối hợp quản lý các định chế tài
chính lớn, các tổ chức đánh giá tín nhiệm, tiêu chuẩn kế toán, thuế. Các nước
G-20 cũng thống nhất nhiều biện pháp tăng cường chế tài và quản lý tài
chính-ngân hàng quản lý lương thưởng, giám sát chặt chẽ vốn, tính thanh
khoản của các tổ chức tài chính..v..v… Bên cạnh tăng cường vai trò của
Ngân hàng TW, Giáo sư Joseph Stiglitz khuyến nghị các nước nên có thêm
một Cơ quan Quản lý Tài chính đặc trách theo dõi, quản lý và giám sát các
lĩnh vực tài chính như chứng khoán, bảo hiểm, các sản phẩm tài chính, cảnh
báo rủi ro, bảo đảm ổn định hệ thống.
Đáng lưu ý, vấn đề quản lý và tái cơ cấu các tổ chức tài chính lớn (too-
big-to-fail) hiện đang thu hút sự quan tâm lớn của chính giới và học giả quốc
tế. Giáo sư Joseph Stiglitz cho rằng việc để cho các định chế tài chính-ngân
hàng phát triển tới quy mô quá lớn tiềm tàng nhiều rủi ro hệ thống và khuyến
nghị cần khống chế quy mô các định chế này. Giáo Roubini (Đại học New
York) cho rằng bên cạnh việc chia các định chế tài chính lớn thành những
định chế nhỏ hơn, cần khôi phục lại việc tách chức năng ngân hàng đầu tư ra
khỏi chức năng ngân hàng thương mại4. Uỷ ban Cạnh tranh EC đang xem xét
áp dụng việc tái cơ cấu là tiêu chí bắt buộc để nhận cứu trợ của Chính phủ
đối với các định chế tài chính- ngân hàng lớn5.
2- Định hướng mô hình tăng trưởng của Việt Nam từ những vấn đề
chung của khu vực châu Á trong bối cảnh mới
Từ những xu hướng tái cơ cấu kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế -
tài chính toàn cầu như đã phân tích ở trên cho thấy tính cầp thiết phải tái cơ
cấu nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh mặc dù các nền
kinh tế lớn trên thế gi...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top