dl_cafe_nhe

New Member

Download Chúng ta thường gặp lỗi khi tư duy như thế nào miễn phí





Lỗi 3: Giải quyết vấn đề bằng định nghĩa lại nó.
 
Con người sử dụng và phụ thuộc vào những từ ngữ trừu tượng do mình sinh ra. Một từ đơn giản chưa chắc đã là dễ hiểu, nhất là nó thay đổi theo tình huống sử dụng, định nghĩa nó. Chúng ta có thể làm biến mất vấn đề, đảo ngược vấn đề khi phân loại lại nó vào trong một phạm trù khác, lĩnh vực kiến thức, môi trường văn hoá khác. Lôgíc hình thức hàm ý là không được thay đổi các khái niệm theo định nghĩa lại, phân loại lại chúng khi đang tiến hành quá trình tư duy. Điều này không tất yếu làm thay đổi điều kiện. Hiểu sai những thuộc tính cơ bản của khái niệm hay mức độ hiểu biết thiếu sâu sắc khái niệm cũng thường dẫn đến thay đổi khái niệm và là nguyên nhân nảy sinh lỗi loại 3 này.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

đối tượng nghiên cứu của lôgic hình thức, còn trạng thái động là đối tượng nghiên cứu của lôgíc biện chứng. Ví dụ, các loại hình tư duy cổ đại, cổ điển – như những sự vật đồng nhất trừu tượng là đối tượng của lôgic hình thức, ngược lại sự vận động của tư duy từ loại hình cổ đại lên loại hình cổ điển là đối tượng của lôgic học biện chứng. Cũng tương tự như vậy, các hình thức của tư duy như khái niệm, phán đoán, suy lý... cũng nằm trong sự thống nhất của trạng thái động và trạng thái tĩnh. Với mỗi hình thức này, lôgic hình thức và lôgíc biện chứng cũng có những nhiệm vụ khác nhau. Lôgic hình thức nghiên cứu chúng trong trạng thái tĩnh (Ví dụ, vạch ra các thuộc tính, dấu hiệu được phản ánh tại một thời điểm cố định, trong một quan hệ nhất định). Trái lại, lôgic biện chứng nghiên cứu trạng thái động của chúng (ví dụ, sự vận động, phát triển của khái niệm; sự vận động, phát triển của các thuộc tính, dấu hiệu trong các khái niệm). Lôgic học tập trung làm rõ tính chân thực của tư tưởng, nó thống nhất giữa 2 bộ phận: lôgic học hình thức và lôgic học biện chứng. Những lý luận là hình thức của lôgic hình thức có cơ sở của thực tế khách quan là sự đứng im tương đối và ranh giới xác định của các sự vật. Khi con người nhận thức ở trong trạng thái ổn định, không quan tâm đến mối liên hệ giữa các sự vật thì môn lôgic hình thức với phạm trù cố định là cần thiết và có hiệu quả, nhưng nếu tuyệt đối hoá vai trò của lôgíc hình thức thì sẽ dẫn đến sai lầm. Lôgic biện chứng vượt ra ngoài phạm vi của lôgic hình thức, nó không chỉ phản ánh sự khác nhau giữa sự vật mà còn phải ánh mối liên hệ giữa chúng, không chỉ phản ánh trong trạng thái yên tĩnh của sự vật mà còn phản ánh quá trình vận động của sự vật. Con người nhận thức các trạng thái vận động, quan tâm đến mối liên hệ giữa các sự vật thì môn lôgic biện chứng với phạm trù biến động sẽ là cần thiết và có hiệu quả. Lôgic hình thức và lôgic biện chứng bổ sung cho nhau. Trong quá trình nhận thức không thể vi phạm những quy luật của lôgic hình thức, dẫn đến những mâu thuẫn làm cho tư duy rối loạn. Mẫu thuẫn lôgic ở đây là do sai lầm chủ quan của con người trong quá trình nhận thức, không phải là mẫu thuẫn trong hiện thực khách quan. Để nhận thức được mâu thuẫn trong hiện thực, trước hết phải theo những quy luật của lôgic hình thức, loại trừ mâu thuẫn lôgic, trên cơ sở đó vận dụng phương pháp tư duy biện chứng mới có thể nhận ra thức được biện chứng khách quan, phát hiện ra mâu thuẫn của bản thân sự vật. Ta gọi những quy luật cơ bản là những tính chất chung, đúng đắn có hiệu lực và làm cơ sở cho mọi quá trình tư duy có lôgíc. Bảng sau so sánh hệ thống nguyên lý và quy luật cơ bản của 2 học thuyết lôgíc hình thức và biện chứng.
Tiếp theo chúng ta khảo sát các nguyên lý và quy luật lôgic cụ thể. II. Những quy luật của lôgíc hình thức cổ điển 1. Quy luật đồng nhất. Mỗi tư tưởng (để phản ánh về đối tượng ở phẩm chất xác định) phải đồng nhất với chính nó. A là A. Quy luật đồng nhất đảm bảo cho tư duy có được tính xác định. Tính xác định của khái niệm phản ánh tính xác định của sự vật mà khái niệm đó phản ánh. Chừng nào sự vật vẫn còn là nó, chưa biến thành cái khác thì nội hàm của khái niệm về sự vật đó phải được giữ nguyên, phải được đồng nhất. 2. Quy luật phi mâu thuẫn. Một tư tưởng (đã được định hình) không được đồng thời mang 2 giá trị lôgíc trái ngược nhau. Điều này đảm bảo cho tư duy có tính nhất quán. 3. Quy luật loại trừ cái thứ 3 - luật bài trung. Một tư tưởng phải mang giá trị lôgíc xác định, hay chân thực, hay giả dối không có khả năng thứ 3. 4. Quy luật lý do đầy đủ. Bất kỳ một phán đoán nào muốn được thừa nhận là chân thực thì phải có đầy đủ những luận điểm chân thực khác làm căn cứ/lý do để xác minh. Các phương pháp lôgíc giúp chúng ta tư duy đúng lôgíc và khám phá bản chất, quy luật, phổ biến của sự vật tồn tại. Ngoài ra, tính thực tiễn cũng đóng vai trò quan trọng không kém đối với việc kiểm tra, đánh giá chân lý của tri thức con người. III. Những quy luật của lôgíc biện chứng. 1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong những mối liên hệ, tác động lẫn nhau. 2. Nguyên lý về sự phát triển: Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong sự vận động, biến đổi và phát triển. • Quy luật 1: Chuyển hoá lượng - chất. Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất và ngược lại. Quy luật giải thích cách thức của sự phát triển. • Quy luật 2: Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mâu thuẫn nghĩa là chứa những mặt đối lập. Những mặt đối lập này vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau. Quy luật giải thích nguyên nhân của sự phát triển. • Quy luật 3: phủ định của phủ định. Quá trình phát triển sự vật, hiện tượng là quá trình phủ định của phủ định, phủ định để tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát triển. Quy luật giải thích tính chu kỳ, quá trình của sự phát triển, đổi mới. IV. Các loại lỗi lôgic a) 8 lỗi lôgíc hình thức 1. Lỗi "Mãi mãi không thay đổi". Ta suy nghĩ về sự vật hay hiện tượng mãi giống như nó đang ở điều kiện hiện tại hay là mãi có một tính chất, thuộc tính cố định nào đó. 2. Lỗi "Nhìn nhận một quá trình lâu dài như một sự kiện nhất định". Ta suy nghĩ về các đối tượng dựa trên một vài sự kiện, hiện tượng liên quan chứ không phải là trong suốt cả quá trình. 3. Lỗi "Giải quyết bằng cách định nghĩa lại". Một dạng của suy nghĩ đánh tráo khái niệm nghĩa là thay đổi nội dung khái niệm trong khi giữ nguyên tên gọi. 4. Lỗi "Phân tích tính độc lập". Sự việc, sự vật ta chọn được tách khỏi tồn tại, phân tách hoàn toàn một bộ phận khỏi tương tác/quan hệ với môi trường, độc lập trong khi sự thực mỗi thứ đều phụ thuộc lẫn nhau, có quan hệ với những cái khác. 5. Lỗi "Cô lập vấn đề": lưu tâm tới vấn đề như một sự việc riêng rẽ, rời rạc trong ngữ cảnh rộng của nó. 6. Lỗi "Kết quả duy nhất": Một kết quả chỉ tạo ra từ 1 nguyên nhân tương ứng. 7. Lỗi "Loại trừ phương án khả thi": hướng đến giới hạn cách chúng ta nghĩ và lựa chọn. Thực tế cho thấy nhiều khi chúng ta lựa chọn trong hơn 2 phương án. 8. Lỗi "Nguyên nhân đúng đắn": nghĩ rằng đó là lý do đầy đủ cho sự kiện Khách quan Chủ quan. Thoả mãn sớm: phụ thuộc vào những mong muốn, mục tiêu, thái độ, tình cảm, chưa đủ những cứ liệu thực tiễn vững chắc. Đa số các lỗi đều bắt nguồn từ thiếu sót là coi mọi khái niệm, đối tượng, người, sự vật... là không biến đổi, không có liên hệ gì với nhau. Giải thích cụ thể Lỗi 1: "Mãi mãi là không thay đổi " Khó có thể hạn chế hay khẳng định những ngữ cảnh khác nhau áp dụng chỉ một cách duy nhất. Lôgíc hình thức trong sâu xa không xem xét đến yếu tố thay đổi theo thời gian. Chúng ta ph...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top