Cord

New Member

Download miễn phí Đề tài Hạch toán nguyên vật liệu tại công ty giầy Thượng đình - Hà Nội





Việc phân tích, đánh giá tình hình sử dụng NVL để sản xuất sản phẩm ở Công ty là một yêu cầu không thể thiếu trong công tác quản lý nó phản ánh hiệu quả sử dụng NVL cũng như tình hình cung ứng NVL có đảm bảo cho sản xuất được tiến hành liên tục hay không từ đó giúp cho nhà quản lý đề ra những kế hoạch phù hợp. Tuy nhiên hiện nay Công ty vẫn chưa tiến hành biện pháp này. Theo em cuối mỗi kỳ hạch toán (quý), kế toán nên tiến hành đánh giá việc cung cấp và sử dụng NVL từ đó đặt ra các định mức tiêu hao NVL trong giá thành sản phẩm, lập kế hoạch thu mua NVL . cho kỳ tiếp theo.

Để nâng cao trình độ chuyên môn của nhân viên kế toán thì sau vài năm, phòng kế toán nên bố trí đổi phần hành kế toán giữa các nhân viên với nhau. Điều này giúp cho các phần hành kế toán, từ đó tạo điều kiện hỗ trợ nhau trong công việc.

Về công tác kiểm tra kế toán: Theo qui chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước nếu có điều kiện thì nên tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp và tiến hành hoạt động thường xuyên. Là một Công ty có qui mô lớn, khối lượng công việc hạch toán nên việc sai sót trong việc hạch toán là không thể tránh khỏi vì vậy Công ty nên tiến hành lập ra bộ phận kiểm toán nội bộ để có thể thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động kế toán nói chung và hoạt động quản lý nói riêng giúp cho hoạt động của Công ty ngày càng có hiệu quả hơn. Bộ phận này nếu được lập thì nên đặt trực tiếp chịu sự lãnh đạo của Công ty và phải hoàn toàn độc lập với phòng kế toán.

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ng lên đáng kể. Nếu như vào năm 1961, năm đầu thời kỳ chuyển về cơ sở CN Hà Nội, sản lượng mũ mới đạt 63.288 chiếc và giầy vải là 246.362 đôi thì đến năm 1965 sản lượng mũ đã lên đến 100.000 chiếc và giầy vải đạt tới 320.000 đôi, đạt xấp xỉ 150% kế hoạch.
Vào cuối năm 1970, trong đà phát triển chung của nền công nghiệp thủ đô, qui mô nhà máy một lần nữa lại được mở rộng : nhà máy cao su Thụy Khê đã sát nhập thêm XN giày vải Hà Nội cũ (gồm hai cơ sở Văn Hương- Chi Hằng) và lấy tên mới là XN giày vải Hà Nội. Đến đây 14 năm sau ngày thành lập, từ một X30 gần như trắng tay, XN giầy vải Hà Nội đã có được vài ba chiếc máy cán nhỏ, có được sự ổn định về kỹ thuật và qui trình sản xuất giày vải thủ công cùng gần 1000 người thợ. Chủng loại sản phẩm của xí nghiệp đã phần nào phong phú hơn những năm đầu thành lập, ngoài mũ cứng,bóng bay, dép Thái Lan, XN đã sản xuất được một số loại giày như : giày vải ngắn cổ, giày vải cao cổ, ba ta, giày cao su trẻ em và đặc biệt đã có giày basket xuất khẩu theo nghị định thư sang Liên Xô và các nước Đông Âu cũ ( trong sản lượng 2 triệu đôi giày vải năm 1970, đã có 390.193 đôi giày basket đầu tiên vượt biên giới).
Ngày 1-4-1973 phân xưởng mũ cứng của xí nghiệp được tách ra thành lập xí nghiệp mũ Hà Nội ở phố Đội Cấn.
Năm 1976 XN giao phân xưởng may ở Khâm Thiên để UBND thành lập trường dạy cắt may Khâm Thiên ngày nay, đồng thời XN còn giao 2 cơ sở sản xuất ở Văn Hương và Cát Linh về xí nghiệp cao su Hà Nội.
Cũng thời gian này, UBND thành phố Hà Nội có kế hoạch xây dựng một khu công nghiệp sản xuất giầy hiện đại- tập trung, điều này đã dẫn đến sự hợp nhất giữa XN giày vải Hà Nội với XN giày vải Thượng Đình cũ và lấy tên chung là "XN giày vải Thượng Đình". Lúc này XN đã có tới gần 3000 các bộ - công nhân viên, 8 phân xưởng sản xuất và 10 phòng ban nghiệp vụ. Sản lượng giày xuất khẩu năm cao nhất (1986) là 2,4 triệu đôi, trong đó riêng giày xuất cho liên Xô là 1,8 triệu đôi.
Theo yêu cầu phát triển của ngành giầy, tháng 4 năm 1989 XN đã tách cơ sở 152 Thụy Khê để thành lập XN giày Thụy Khê. 1700 CB-CNV còn lại đồng tâm hiệp lực viết tiếp lịch sử trưyền thống của X30 ngày trước và nay là XN giày vải Thượng Đình.
Năm 1991, Liên Xô và các nước Đông Âu cũ đổ vỡ đã đẩy giầy vải Thượng Đình rơi vào một tình thế hiểm ngèo : mất thị trường xuất khẩu, thị trường nội địa lại chưa hình thành nên sản xuất bị đình trệ, số lượng công nhân không có việc ngày càng nhiều, việc đảm bảo đời sống cho CB-CNV là hết sức khó khăn.
Cuối năm 1991 đầu năm 1992, ban lãnh đạo XN đã tìm ra lối thoát: XN vay vốn của ngân hàng Ngoại thương để đầu tư nhập công nghệ sản xuất giầy cao cấp của Đài Loan và đồng thời ký kết hợp đồng xuất khẩu LEAPRODEXIM trên cơ sở hợp tác bình đẳng, tôn trọng, cùng có lợi và cùng chịu trách nhiệm khi chất lượng hàng hoá bị khách hàng khiếu nại. Phương án này giúp cho XN tránh được những thiệt thòi do sự non yếu khi mới bước vào thương trường, đồng thời phát huy được hết thế mạnh của mình. Cụ thể, theo hợp đồng: phía XN lo tổ chức sản xuất, quản lý doanh nghiệp, quản lý lao động-cán bộ và các vấn đề liên quan trong nước như mua NVL trong nước, xác định giá bán sản phẩm, thực hiện các thủ tục xuất- nhập khẩu cùng các thủ tục khác, còn phía đối tác lo thị trường xuất khẩu, cho vay vốn đổi mới thiết bị - công nghệ, chuyển giao công nghệ, hướng dẫn đào tạo kỹ thuật, giúp XN mua những nguyên liệu không có trong nước...
Ngày 8/7/1993, được sự đồng ý của UBND thành phố Hà Nội, phạm vi chức năng của XN đã được mở rộng: từ đây XN trực tiếp xuất nhập khẩu và kinh doanh giày dép cũng như nguyên liệu máy móc phục vụ cho nó, ngoài ra còn có cả du lịch và dịch vụ. Đồng thời XN cũng đổi tên thành "Công ty giầy Thượng Đình", công ty hạch toán kinh doanh độc lập và chịu sự quản lý của Nhà Nước.
Tên giao dịch : ZIVIHA.
Trụ sở chính : Km số 8, đường Nguyễn Trãi, Quận Thanh Xuân, Hà Nội.
TDT sử dụng : 35000m2.
Tổng mức vốn hiện nay(đầu 2000) : 46.408.363.111VNĐ.
Trong đó VCĐ : 14.502.446.384VNĐ.
VLĐ : 31.905.916.727VNĐ.
2.Đặc điểm qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm.
2.1. Sản phẩm.
Do không ngừng nâng cao NXLĐ, chất lượng sản phẩm, đầu tư dây chuyền công nghệ sản xuất nên sản phẩm của công ty hết sức đa dạng- phong phú về chủng loại, mầu sắc và hình dáng. Nhưng có thể chia sản phẩm của công ty thành các loại sau:
Giầy vải các loại.
Giầy thể thao.
Đế giầy ép.
Dép, quần áo bảo hộ lao động, juăng, phớt các loại ( theo đăng ký sản phẩm nhưng chỉ sản xuất khi thị trường có yêu cầu ).
2.2. Qui trình công nghệ sản xuất.
Qui trình công nghệ sản xuất giầy của công ty được xác định là quá trình sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục, có công đoạn song song. Sản phẩm nhập kho là kết quả của nhiều công đoạn.
Qui trình sản xuất giầy được thực hiện qua các bước công nghệ sau :
Công đoạn bồi vải :
Các loại vải được chọn mầu, can và bồi dán thành nhiều lớp với nhau hay với vật liệu xốp Poliurethan (PU) bằng keo chuyên dụng. Trước năm 1992, ở công đoạn này dùng keo cao su với dung môi là xăng công nghệ, lượng dùng khoảng 1 tấn/ngày và để bốc hơi tự nhiên cho khô nên thường gây ô nhiễm không khí nặng. Từ 1992 đến nay, XN chủ yếu dùng keo latex ( mủ cao su tự nhiên, dung môi là nước ) nên đã hạn chế nhiều khả năng ô nhiễm môi trường. Ngoài keo latex, có thể vẫn phải dùng keo cao su, keo PVA ( có dung môi hữu cơ ) khi cần thiết.
Công đoạn tạo mũ giầy.
Vải bồi được cắt định hình theo mẫu và may ( trên máy khâu ) thành mũ giầy.
Công đoạn hỗn luyện và định hình cao su:
Crêp được cán hỗn luyện với các hoá chất ( bột nhẹ, lưu huỳnh, titan đioxit, kẽm oxit, bột mầu, các chất xúc tác ,...) trên máy luyện kín. Cao su sau khi đã được cán hỗn luyện sẽ được cán trên máy cán hoa để tạo đế và tạo viền giầyvới màu sắc và các hoa văn theo mẫu. Lớp cán đế và viền được cắt tạo hình thành đế giầy và viền giầy. Lớp các tạo viền được cắt sửa theo kích thước đã định. Đế và viền loại này được dùng để sản xuất giầy vải theo công nghệ lưu hoá 1 lần. Công nghệ lưu hoá 1 lần có thể đáp ứng yêu cầu cả các lô hàng với số lượng sản phẩm không lớn hay sự thay đổi đa dạng nhất về mẫu mã và màu sắc nên rất phù hợp với tình hình thị trường hiện nay.
Cao su sau hỗn luyện còn được dùng để ép đúc đế giầy . Trên máy ép có gia nhiệt nên sau khi ép cao su đã được lưu hoá. Theo cách này có thể tạo được các loại đế có gân (hoa văn) sâu phù hợp với yêu cầu sản xuất giầy vải và giầy thể thao cao cấp. Công nghệ sản xuất giầy từ đế đã lưu hoá loại này được gọi là công nghệ lưu hoá 2 lần.
Công đoạn gò định hình và hoàn thành.
Mũ giầy được ghép với đế ( đã lưu hoá hay chưa lưu hoá ) trên băng chuyền gò giầy chuyên dụng. Keo dán được dùng ở đây chủ yếu là keo latex. Viền được dán sau khi đã gò gép mũ và đế. Sau khi gò định hình, giầy được chuyển đến thiết bị lưu hoá gia nhiệt bằng hơi nước. Sản phẩm được kiểm tr...

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top