Download miễn phí Khái quát về tổng công ty dệt - May Việt Nam





Đối với ngành dệt may, vấn đề đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật là vấn đề hết sức cấp bách. Vì vậy đề nghị Nhà nước hỗ trợ thông qua việc ưu tiên giành cho Tổng công ty các chương trình hợp tác về đào tạo cán bộ ở trong và ngoài nước.

Nhà nước cần xem giám đốc như một nghề, do đó cần có chương trình đào tạo chính quy, đào tạo bổ sung và cập nhật kiến thức hàng năm cho các giám đốc.

Giám đốc đã được bổ nhiệm cần giao trách nhiệm và quyền hạn tương xứng đã nêu ở trên. Giám đốc không hoàn thành nhiệm vụ được giao (bằng các chỉ tiêu cụ thể) sẽ bị miễn nhiệm mà không cần qua các quy trình, thủ tục như khi bổ nhiệm. Nếu vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo pháp luật

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


gày 23/04/2001. Theo đó giai đoạn từ 2001 đến 2005 ngành dệt may được đầu tư 35.000 tỷ đồng (VINATEX là 12.500 tỷ đồng) và từ 2006 đến 2010 được đầu tư 30.000 tỷ đồng (VINATEX là 9.500 tỷ đồng)…
Bên cạnh đó hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty cũng diễn ra trong bối cảnh có nhiều khó khăn và thách thức lớn như:
Chưa có sự đồng nhất trong cơ chế giữa các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập theo cơ chế 388 và Tổng công ty hạch toán tổng hợp theo mô hình Tổng công ty 91.
Ngay sau khi thành lập Tổng công ty đã phải đương đầu với việc giải quyết khó khăn ở một số công ty dệt lớn như Dệt Nam Định, Dệt 8/3, Dệt Hoà Thọ, Dệt Vĩnh Phú… mà hậu quả của nó phải trong thời gian dài mới có thể khắc phục được.
Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực những năm 1997, 1998 đã có ảnh hưởng rất xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn ngành dệt may nói chung và Tổng công ty Dệt-May Việt Nam nói riêng. Sức mua của các bạn hàng lớn như: EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…giảm mạnh nên hàng của ta bị ép cấp ép giá. Một số nước bị khủng hoảng như: Indonesia, Thái Lan…có đồng tiền bị mất giá cũng xuất khẩu hàng dệt may với số lượng lớn, điều đó đã làm giảm sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam.
Đối với các thị trường xuất khẩu lợn như thị trường SNG và Đông Âu thì chúng ta vẫn chưa có đủ điều kiện để khai thác có hiệu quả (cơ chế thanh toán tại SNG và Đông Âu chưa được khai thông). Còn thị trường Mỹ rộng lớn thì từ cuối năm 2001 mới được mở ra.
Thị trường nội địa với gần 80 triệu dân nhưng sức mua bị hạn chế do gần 80% dân số nước ta sống ở nông thôn có thu nhập tương đối thấp do giá nông sản trong nước và trên thị trường quốc tế liên tục giảm, thiên tai lại liên tiếp xảy ra. Đã thế các doanh nghiệp phải cạch tranh quyết liệt với hàng nhập lậu, hàng giả, hàng trốn thuế, đặc biệt là hàng nhập lậu từ Trung Quốc.
Thêm vào đó, một số vương mắc do cơ chế chính sách như: thuế suất cao (thuế VAT đối với sảm phẩm sợi dệt là 10%), chi phí đầu vào như điện, than, xăng dầu, cước dịch vụ bưu chính viến thông, phí giao thông, giao nhận tại cảng, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế liên tục tăng làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam; vốn chủ sở hữu quá nhỏ bé, vốn kinh doanh chủ yếu là vốn vay phải chịu lãi suất ngân hàng cao làm cho sản xuất kinh doanh kém hiệu quả.
5. Đánh giá chung về tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam từ khi thành lập đến nay.
5.1. Những kết quả đạt được.
5.1.1. Về kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch.
Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn và thách thức lớn, lại phải cạnh tranh gay gắt, toàn diện trên thị trường trong nước và quốc tế, toàn Tổng công ty cũng đã đạt được những kết quả khả quan trong giai đoạn 1996-2000 và giai đoạn 2001 đến nay như sau:
Chỉ tiêu
Tăng bình quân 1996-2000 (%)
Tăng bình quân 2001-2003 (%)
Giá trị sản xuất công nghiệp
Doanh thu.
Kim ngạch xuất khẩu(tính đủ nguyên phụ liệu)
Sản phẩm chủ yếu
Sợi.
Vải các loại.
Sản phẩm may.
11,96
13,02
9,69
8,73
7,25
12,02
15,5
20,6
19,9
7,9
10,1
26,0
Số liệu trên cho thấy, đây là một thành tích đáng phấn khởi thể hiện quyết tâm cao và sự cố gắng lớn của tất cả các doanh nghiệp trong Tổng công ty, nhất là từ năm 2001 đến nay đạt mức tăng rất cao. Trong lĩnh vực xuất khẩu, kể từ khi thị trường Mỹ dược mở ra vào cuối năm 2001 thì ngay trong năm 2002 kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ của ngành dệt may Việt Nam đã đạt gần 1 tỷ USD ( trong khi đó kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 2,75 tỷ USD). Kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ năm 2003 đạt gần 2 tỷ USD, trong khi kim ngạch xuất khẩu vào tất cả các thị trường đạt khoảng 3,67 tỷ USD. Riêng Tổng công ty Dệt-May Việt Nam (kể cả các đơn vị đã cổ phần hoá), năm 2002 đạt 850 triệu USD trong đó kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ đạt 260 triệu USD; năm 2003 doanh thu đạt trên 14000 tỷ đồng tăng 27% so với năm 2002, kim ngạch xuất khẩu đạt 1 tỷ USD tăng 31% trong đó xuất khẩu vào Mỹ đạt 450 triệu USD.
5.1.2. Về đầu tư phát triển.
Trong 5 năm 1996-2000, các đơn vị, doanh nghiệp trong Tổng công ty đã thực hiện các công trình đầu tư trị giá 4.100 tỷ đồng, trong đó 80% vốn đầu tư cho các dự án nâng cấp và mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp dệt. Trong đó có một số đơn vị có tổng mức đầu tư cao như: Dệt may Thành Công 397 tỷ đồng, Dệt Việt Thắng 230 tỷ, Dệt may Hà Nội 220 tỷ, Dệt Vĩnh Phú 192 tỷ, Dệt Phong Phú 190 tỷ, Dệt Thắng Lợi 154 tỷ, Dệt Nha Trang 144 tỷ, May Việt Tiến 141 tỷ…
Từ năm 2001 đến nay, thực hiện Quyết định 55 của Chính Phủ, Tổng công ty Dệt-May Việt Nam đã triển khai nhiều dự án với tổng mức đầu tư cao gần 7000 tỷ đồng. Có nhiều dự án đầu tư đã hoàn thành và đã được đi vào khai thác có hiệu quả với năng lực tăng thêm 29,7 ngàn tấn sợi; 57,5 triệu m2 vải dệt thoi; 2,146 tấn vải dệt kim; và 21 triệu sản phẩm may. Thu dụng thêm 15700 lao động.
Đối với các dự án trọng điểm do Tổng công ty là chủ đầu tư như: dự án đầu tư sợi, dệt, nhuộm tại khu công nghiệp Hoà Khánh-Đà Nẵng, đầu tư cơ sở hạ tầng tại khu công nghiệp Phố Nối B-Hưng Yên, dự án xử lý nước thải tại khu công nghiệp Phố Nối B, dự án đầu tư nhà máy nhuộm Yên Mỹ, dự án khu công nghiệp Bình An…hiện nay đang được các Ban quản lý dự án tiến hành một cách khẩn trương để hoàn thành đúng tiến độ.
5.1.3. Về kết quả thực hiện các mặt quản lý và điều hành:
Tổng công ty đã xây dựng và dần hoàn thiện được về cơ bản hệ thống văn bản, điều lệ, phân công phân cấp trong quản lý và điều hành trong toàn hệ thống Tổng công ty. Phát huy sự chủ động, sáng tạo của các đơn vị thành viên đi đôi với việc tăng cường vai trò đầu tầu, phối hợp quy hoạch của Tổng công ty.
Tổng công ty đang từng bước thực hiện những yêu cầu cơ bản của mô hình tập đoàn hoá các hoạt động của Tổng công ty như thành lập công ty tài chính nhằm tích tụ vốn điều phối cho những đơn vị có nhu cầu và hoạt động có hiệu quả cao, quy hoạch đầu tư theo một chiến lược chung, tập trung sức toàn hệ thống để hỗ trợ có hiệu quả cho những doanh nghiệp gặp khó khăn trước đây như: Dệt Nam Định, Dệt Hoà Thọ, Dệt 8/3…
Tăng cường được uy tín của Tổng công ty ở cả trong nước và ngoài nước. Rất nhiều các doanh nghiệp địa phương đã tự nguyện xin gia nhập Tổng công ty và Tổng công ty đã tiếp nhận, tổ chức lại có hiệu quả rất nhiều các doanh nghiệp như: Công ty bông Việt Nam, Công ty may Thanh Sơn-Đà Nẵng, Công ty may và xuất nhập khẩu Ninh Bình, Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư Kon Tum, Công ty dệt kim Hoàng Thị Loan-Nghệ An, Xí nghiệp may Điện Bàn, Xí nghiệp may Quảng Nam, Xí nghiệp may Thừa Thiên Huế, Công ty may xuất khẩu Bình Định. Hiện nay đang có hàng chục đơn vị khác của các địa phương đang có đơn xin về Tổng công ty. Cho đến hết năm 2002 đã có trên 10 công ty và bộ phận công ty được cổ phần hoá, đến hết năm 2003 có thêm 9 đơn vị nữa được cổ phần hoá. Tổng công ty cũng đã tiến hành mua lại và củng cố một số liên doanh nước ngoài bị thua lỗ như: Công ty liên...

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top