Luận văn: Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững ở Việt Nam : Luận văn ThS. Khoa học chính trị: 60 31 20
Nhà xuất bản: Đại học KHXH&NV
Ngày: 2011
Chủ đề: Chính trị học
Hoàn cảnh chính trị
Nhà nước
Việt Nam
Phát triển bền vững
Miêu tả: 71 tr. + CD-ROM + Tóm tắt
Luận văn ThS. Chính trị học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững (PTBV) và vai trò của nhà nước với PTBV. Phân tích, đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV qua việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và chính sách môi trường. Trình bày những khuyến nghị cơ bản để nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước với PTBV ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu sự PTBV bị quy định bởi nhiều yếu tố khác nhau, vai trò của nhà nước và cụ thể hơn là của nhà nước ta hiện nay đối với PTBV, tập trung vào phân tích các chính sách của nhà nước ta liên quan đến chủ đề PTBV trong khoảng thời gian từ 1986 đến nay
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT…………………………………..………………2
MỞ ĐẦU……………………...…………………………………………....…………..3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM…………………….........….…......9
1.1. Khái niệm phát triển bền vững ……………………………………….…......…….9
1.2. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững…………......................….……....20
1.3. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề phát triển bền vững ở một số nước……………...30
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở
VIỆT NAM: THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ …………………………….…............37
2.1. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về kinh tế…………….............….37
2.2. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về xã hội…………….....….....…..45
2.3. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về tài nguyên môi trường…......…52
2.4. Những vấn đề đặt ra về vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững ở Việt
Nam………………………………………………………………………………...…61
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM......................................................70
3.1. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững…....................................................................................................71
3.2. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý về phát triển bền vững ….........................72
3.3. Phát triển đồng bộ hệ thống chính sách kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường..….74
3.4. Xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh và hiệu quả……..............…85
KẾT LUẬN ………………………………………………………………................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..….922
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. Chương trình nghị sự CTNS
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
3. Phát triển bền vững PTBV
4. Xã hội chủ nghĩa XHCN
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển là vấn đề lớn và không dễ đối với các quốc gia, các dân tộc và ở mọi
thời đại. Trong suốt thế kỷ XX và những thập kỷ đầu thế kỷ XXI chúng ta đã chứng
kiến sự thành công và cả sự thất bại từ phạm vi quốc gia đến phạm vi toàn cầu trong
tìm lời giải bài toán phát triển.
Trong thời gian dài tư duy về phát triển không chỉ ở Việt Nam, mà cả trên
phạm vi toàn cầu bị chi phối bởi khuynh hướng duy kinh tế, về thực chất đó là kiểu
quan niệm ngầm ẩn đồng nhất phát triển xã hội với phát triển kinh tế, hay nói các khác
là sẵn sàng hy sinh các mặt khác của sự phát triển (xã hội và môi trường…) cho sự
phát triển kinh tế. Đúng là không thể nói đến phát triển nếu không giải được vấn đề
nền tảng là phát triển kinh tế. Tuy nhiên thực tiễn của thế kỷ XX cho thấy hệ bên cạnh
những bước tiến bộ vượt bậc về kinh tế thì những hệ quả xấu, ngoài dự tính của chính
quá trình phát triển cũng ngày càng lộ rõ và trở thành yếu tố đe dọa chính sự tồn tại và
phát triển của mỗi xã hội và cả nhân loại. Chẳng hạn, sự bùng nổ dân số, sự gia tăng
khoảng cách giàu nghèo, sự suy thoái môi trường, sự biến đổi khí hậu v.v. Do đó, bài
học lớn được rút ra là: trong quá trình phát triển, con người cần giải quyết tốt mối
quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên mà bản chất của nó là sự “đồng tiến hóa”
hay chính là phát triển bền vững (PTBV).
Kể từ “Báo cáo Tương lai chung của chúng ta” (năm 1987) đến Hội nghị
Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển (năm 1992) và nhất là sau Hội nghị
Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (năm 2002), PTBV đã trở thành Chương
trình nghị sự của thế kỷ XXI, và thu hút được sự quan tâm sâu rộng của nhiều chính
khách, nhà khoa học có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, trong đời sống quốc tế, PTBV
thực sự mới chỉ nhận được sự đồng thuận trên những vấn đề chung, cơ bản có tính
nguyên tắc. Do tính chất liên ngành, phức tạp, nhiều vấn đề PTBV đến nay còn chưa
được giải quyết thỏa đáng và nhận thức thống nhất từ những vấn đề như bản chất, điều
kiện đảm bảo, khả năng, mức độ áp dụng….đang cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Ở Việt Nam, hơn 20 năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới do Đảng ta khởi
xướng, lãnh đạo, Nhà nước ta cùng với nhân dân đã đạt được những thành tựu to lớn
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Cùng với xu thế chung của thế4
giới, vấn đề PTBV được đặt ra ngay từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới. Song đến khi
tiến trình này đi vào chiều sâu thì nó mới thực sự trở nên cấp bách, thu hút sự quan
tâm đặc biệt của dư luận xã hội. Từ thực tế phát triển của đất nước, một vấn đề được
quan tâm là sự nhận thức sâu sắc hơn về khả năng, điều kiện đảm bảo PTBV ở Việt
Nam, làm sao để có thể kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo
vệ môi trường trong quá trình phát triển.
Sự kết hợp hài hòa đó là yêu cầu khách quan từ thực tiễn song, không có nghĩa
là sự thống nhất đó tự nó sẽ diễn ra, mà rất cần đến vai trò của chủ thể, mà trước hết là
vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra sự PTBV. Trong những năm qua, bằng các
chính sách kinh tế, xã hội, môi trường đúng đắn, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam phát triển với cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, chất lượng cuộc sống của người dân ở
các vùng miền được nâng lên, các vấn đề xã hội từng bước được giải quyết, các nỗ lực
nhằm phục hồi và bảo vệ tài nguyên và môi trường đã đạt được những kết quả nhất
định… Tuy nhiên, tình trạng phân hóa giàu cùng kiệt giữa các nhóm dân cư, giữa các
vùng miền đang ngày càng doãng ra, nền kinh tế vẫn có nguy cơ tụt hậu xa so với các
nước, tình trạng tham nhũng, làm ăn phi pháp, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thất
nghiệp, tệ nạn xã hội…vẫn đang ngày càng tăng lên, đe dọa đến những thành tựu
PTBV mà Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ lực đạt được. Những hạn chế đó có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về yếu tố chính sách, pháp luật PTBV
còn thiếu đồng bộ, chưa kết hợp hài hòa các nhân tố của PTBV trong quá trình hoạch
định và thực thi chính sách, việc thực hiện chính sách còn nhiều lúng túng, đặc biệt là
tình trạng tham ô, tham nhũng đang trở thành lực cản lớn trên con đường PTBV ở
nước ta. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là Nhà nước cần làm thế nào để vừa đạt
được sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, lại vừa đảm bảo được sự tiến bộ và công
bằng xã hội, đồng thời bảo vệ môi trường trong sạch, sử dụng tiết kiệm, hợp lý tài
nguyên thiên nhiên đất nước. Đây thực sự là vấn đề khó khăn, cần được giải
quyết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ
hơn vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài “Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững
ở Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững.
Cùng với xu thế phát triển chung của thế giới và yêu cầu của công cuộc Đổi mới
đất nước, trong nhiều năm trở lại đây vấn đề PTBV được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Bằng các công trình nghiên cứu của mình, họ đã có những đóng góp nhất
định cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về PTBV ở nước ta.
Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề PTBV, trước tiên,
phải kể đến công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành: “Tiến tới môi trường
bền vững” (1995) của Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Tổng
hợp Hà Nội. Công trình này đã tiếp thu và thao tác hóa khái niệm PTBV theo Báo cáo
Brundlantd, theo đó, PTBV được quan niệm như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên
bốn lĩnh vực: bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt
môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật.
Công trình “Nghiên cứu xây dựng tiêu chí PTBV cấp quốc gia ở Việt Nam - giai
đoạn I” (2003) do Viện Môi trường và PTBV, Hội liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật
Việt Nam thực hiện. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Bruntland và kinh
nghiệm các nước, các tác giả đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc
gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời, nhóm tác
giả cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam.
Công trình nghiên cứu:“Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững”
(2000) do Lưu Đức Hải chủ biên đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành
động quản lý môi trường cho PTBV. Công trình này đã xác định PTBV qua các tiêu
chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hóa đồng thời tổng quan
nhiều mô hình PTBV.
Đề tài cấp Bộ: “Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động” của PGS.TS
Hà Huy Thành (chủ biên), Viện Nghiên cứu Môi trường và PTBV là cơ quan chủ trì
thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu những nội dung cơ bản, quá trình hình thành và phát
triển của khái niệm, khuôn khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu PTBV của Liên Hợp
Quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới, trên cơ sở đó rút ra những bài học về
PTBV phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Cuốn “Phát triển bền vững của Việt Nam: thành tựu, cơ hội, thách thức và triển
vọng” (2007) của GS.TSKH Ngô Quang Thái và PGS.TS Ngô Thắng Lợi đã nghiên6
cứu, phân tích thực trạng phát triển của kinh tế, xã hội và môi trường Việt Nam trong
thời gian Đổi mới, phân tích những yếu tố hay những điều kiện để có thể giúp Việt
Nam đạt được những tiến bộ khả quan để thực hiện PTBV.
2.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững..
Thực tế thế kỷ XX chỉ ra rằng nếu đặt sự PTBV vào “bàn tay thị trường” thì
không thể đem lại hiệu quả như mong muốn, bởi những khuyết tật của cơ chế này.
Những khuyết tật đó là căn cứ luận chứng cho sự cần thiết phải có “bàn tay hữu hình”
của nhà nước tham gia vào điều tiết, quản lý xã hội. Song thực tế cũng chứng minh
rằng nếu nhà nước can thiệp bất hợp lý các quá trình phát triển cũng có thể trở thành
trở ngại cho PTBV. Do đó, nhà nước can thiệp đến mức độ nào, sử dụng công cụ như
thế nào ở từng giai đoạn phát triển là vấn đề luôn được quan tâm nghiên cứu.
Xung quanh vấn đề này, trước hết phải nói tới Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc
tế: “Chính trị và Phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, (2010) do Học viện Báo chí và Tuyên truyền
cùng với Văn phòng Viện Friedrich Ebert (Đức) đồng tổ chức. Cuốn Kỷ yếu này bao
gồm rất nhiều bài viết phong phú về mối quan hệ giữa chính trị với PTBV trong đó, có
những bài nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với PTBV như bài: “Vai trò của nhà
nước và các đảng phái chính trị đối với sự phát triển bền vững” của GS.TS Thomas
Meyer; bài: “Vai trò của nhà nước với việc phát triển bền vững ở nước ta hiện nay”
của PGS.TS Trần Thành….
Luận án Tiến sỹ Chính trị học: “Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện
công bằng xã hội” (2011) của Võ Thị Hoa. Trong luận án này, vai trò nhà nước được
đề cập dưới góc độ đảm bảo công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế và xã hội thông qua
các chính sách và pháp luật. Dưới góc độ PTBV thì công bằng xã hội chính là điều
kiện để đảm bảo sự kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội.
Do đó, ở mức độ nhất định, các chính sách nhằm thực hiện công bằng xã hội cũng là
nhằm đem lại sự PTBV đất nước.
Luận án Tiến sỹ: “Vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay” (2010) của Võ Hải Long, nghiên cứu vấn đề PTBV dưới
góc độ luật pháp, một công cụ quản lý của nhà nước. Trong luận án, tác giả đã phân
tích, đánh giá vai trò của pháp luật về PTBV kinh tế, xã hội và môi trường, đồng thời
nêu lên những giải pháp để phát huy vai trò của pháp luật đối với PTBV đất nước.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
“Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững”
(2006) của Phạm Thị Ngọc Trầm. Tác phẩm này đã phân tích vai trò của nhà nước
thông qua việc tổng quan luật pháp và chính sách về tài nguyên môi trường, đánh giá
ưu điểm và hạn chế của các chính sách đó đối với PTBV, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm bảo vệ bền vững tài nguyên, môi trường.
Có thể thấy rằng những công trình trên đã đề cập đến ở một mức độ nhất định
vai trò của nhà nước với PTBV ở Việt Nam hiện nay, song chưa có công trình nào
nghiên cứu hệ thống, sâu sắc về vấn đề này dưới góc độ khoa học Chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Thông qua việc luận giải một số vấn đề lý luận về PTBV và vai trò nhà nước
đối với PTBV, luận văn tập trung đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV ở Việt Nam
qua việc thực hiện các chính sách, pháp luật trên các mặt kinh tế, xã hội và môi
trường, từ đó nêu lên những khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa vai trò nhà nước với
PTBV ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm
vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về PTBV và vai trò của nhà nước với
PTBV.
- Phân tích, đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV qua việc thực hiện các
chính sách kinh tế, chính sách xã hội và chính sách môi trường.
- Nêu lên những khuyến nghị cơ bản để nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước
với PTBV ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: sự PTBV bị quy định bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong
luận văn này hướng vào nghiên cứu vai trò của nhà nước và cụ thể hơn là của nhà
nước ta hiện nay đối với PTBV.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong khoảng thời
gian từ 1986 đến nay và tập trung vào phân tích các chính sách của nhà nước ta liên
quan đến chủ đề PTBV.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận:8
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển và vai trò của nhân tố nhà nước đối với phát triển xã hội.
+ Đường lối phát triển đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề
PTBV và về vai trò của nhân tố nhà nước đối với PTBV.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng tổng hợp những nguyên tắc, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp như: hệ
thống, logic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã phân tích lý luận vai trò nhà nước với PTBV.
- Luận văn đã đánh giá vai trò nhà nước đối với PTBV ở Việt Nam trên các
phương diện kinh tế, xã hội và môi trường.
- Luận văn đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò nhà nước
đối với PTBV ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn gồm 3 chương và 11 tiết.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm phát triển bền vững.
1.1.1. Khái lược lịch sử nghiên cứu.
Phát triển (Development): được hiểu là sự vận động, tiến triển theo chiều hướng
đi lên. Tuy vậy, không phải bao giờ các hiện tượng, các quá trình lịch sử cũng vận
động theo xu hướng đi lên mà còn có cả sự thụt lùi, thoái bộ. Sự phát triển của lịch sử
nhân loại 300 năm qua cho thấy chính sự phát triển kinh tế phiến diện, với mục tiêu là
lợi nhuận tối đa cho các chủ đầu tư, tuy đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng nhưng lại dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế, làm nảy sinh các vấn đề xã hội
gay gắt và tàn phá môi trường nghiêm trọng. Thêm vào đó, sự gia tăng dân số nhanh
chóng nhất là ở các nước đang phát triển đã tiêu thụ một lượng năng lượng lớn chưa
kịp tái tạo.
Có lẽ chưa bao giờ sự phát triển do chính bàn tay và khối óc của con người kiến
tạo nên lại đem lại những hệ quả uy hiếp chính cuộc sống của con người như hiện nay.
Các cuộc suy thoái kinh tế, lạm phát cao, bất ổn xã hội, thiên tai… đều là sự cảnh báo
rằng cách phát triển hiện tại của con người vẫn chưa bền vững, chứa đựng
nhiều rủi ro. Do đó, nếu không muốn một sự diệt vong đã từng xảy ra với xã hội Maya
lặp lại thì con người buộc phải đi tìm một cách PTBV hơn.
Vậy PTBV là gì? Để đưa ra một khái niệm như hiện nay, nhân loại đã phải trải
qua một quá trình nhận thức lâu dài. Có thể chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (từ thế kỷ XVIII đến năm 1987): là quá trình tìm tòi và xác
định nội hàm khái niệm.
Từ cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII đến sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, ý tưởng PTBV đã hình thành, ban đầu chủ yếu là vấn đề bảo vệ môi trường. Do
quá trình khai thác mạnh mẽ tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho công nghiệp dẫn đến
sự tàn phá môi trường, đã dự báo hậu quả nhỡn tiền mà con người sẽ phải gánh chịu là
rõ rệt. Bởi vậy, nhiều phong trào bảo vệ môi trường, đã sớm xuất hiện từ đầu thế kỷ
XX ở Mỹ và Tây Âu.10
Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1970 đã gây ra sự thiếu hụt năng lượng trầm
trọng và tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới, nhất là ở các nước công nghiệp
phát triển. Vấn đề giới hạn của tăng trưởng được đặt ra nếu con người không quan tâm
đến vấn đề sử dụng tài nguyên và ô nhiễm môi trường.
Vì vậy, năm 1972, Liên hợp quốc đã tổ chức Hội nghị quốc tế về Môi trường và
con người ở Xtốckhôm (Thụy Điển) với sự tham gia của 113 thay mặt của chính phủ
các nước trên thế giới. Hội nghị này được coi là hội nghị đầu tiên của nhân loại bàn về
vấn đề phát triển dưới quan điểm gắn với việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống của
con người.
Chính những nỗ lực về nhận thức và hành động trên của nhân loại tiến bộ là tiền
đề cho sự ra đời của thuật ngữ PTBV năm 1980 trong công trình “Chiến lược bảo tồn
thế giới” được đưa ra bởi Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc
tế - IUCN.
Sau các thảm họa ở Bhopal (Ấn Độ) năm 1984 và Chernobyl năm 1986 thì
những nhận thức sâu sắc về nguy cơ môi trường do con người gây ra cũng như mối
quan hệ giữa môi trường và phát triển càng được quan tâm mạnh mẽ. Do đó, năm
1987, báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Báo cáo Bruntland), do Uỷ ban thế
giới về Môi trường và phát triển (WCED) đưa ra, đã xác định nội hàm của khái niệm
PTBV, làm tiền đề cho nhận thức của con người.
Báo cáo quan niệm PTBV là: “Sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của
hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”
[15, tr.251] báo cáo cũng cho rằng con người có thể đạt được cả hai mục tiêu phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường nếu sử dụng công nghệ và tổ chức xã hội thích hợp.
- Có thể thấy quan niệm về PTBV trong Báo cáo Bruntland đã tháo gỡ được bế
tắc trong nhận thức về vấn đề này của nhân loại, mở ra một hướng đi mới giúp các
nước giải quyết mối quan hệ giữa môi trường và phát triển.
- Đóng góp nữa của Báo cáo là đã bổ sung vấn đề sự công bằng giữa các thế hệ
trong việc thỏa mãn nhu cầu của mình. Điều này được coi là “đột phá về mối quan hệ
giữa các thế hệ trong sự phát triển” [15, tr. 250]. Điều đó đòi hỏi thế hệ hiện tại phải có
trách nhiệm sử dụng tiết kiệm, hợp lý các nguồn lực để đem lại cơ hội phát triển cho
các thế hệ tương lai.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
- Cuối cùng, khái niệm đã bao quát được tính thời gian, tính liên tục của phát
triển. PTBV cần được xem xét trong tầm nhìn dài hạn, “hay các lợi ích của nó
phải được duy trì không hạn định” [37, tr.14]. Nói cụ thể hơn, lợi ích do các đề án, các
chương trình, chiến lược do nhà nước mang lại cho người dân là không thể có sự hạn
chế về yếu tố thời gian.
Ví dụ: chính sách xóa đói cùng kiệt chỉ hỗ trợ tiền giúp người cùng kiệt có cái ăn,
mặc, ở trong khoảng thời gian 5 năm, sau đó họ lại tái cùng kiệt thì chính sách đó là chưa
bền vững.
Có thể nói những ý tưởng mới về PTBV mà Báo cáo Bruntland mang lại như:
con người vừa có thể phát triển mà không làm tổn hại tới môi trường, công nghệ và tổ
chức xã hội là giải pháp căn bản, sự công bằng và tính trách nhiệm giữa các thế hệ,
tính thời gian và tính liên tục trong phát triển đã thực sự thu hút được sự quan tâm của
nhiều quốc gia trên thế giới. Từ sau Báo cáo này, thuật ngữ PTBV đã được phổ biến
rộng rãi.
Như vậy, điểm nổi bật trong nghiên cứu về PTBV giai đoạn này là:
- Xác định được nội hàm khái niệm PTBV.
- Hướng đến hình thành hệ tiêu chí đánh giá, đo lường PTBV.
- Xác định khung các vấn đề chủ đạo của quá trình PTBV đó là xác lập quan hệ cân
bằng, hợp lý giữa 3 tiểu nhân tố: Sinh thái - Kinh tế - Xã hội.
Giai đoạn thứ hai, đây là giai đoạn hoàn thiện và đưa ý tưởng PTBV vào thực
tiễn, với hai mốc quan trọng:
+ Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và Phát triển do Liên
hợp quốc tổ chức tại Rio de Jannero (Braxin) với sự tham gia của 172 quốc gia trên thế
giới. Hội nghị đã thông qua một số văn kiện quan trọng, tiêu biểu là Tuyên ngôn Rio -
92 và Chương trình nghị sự 21(Agenda 21). Tuyên ngôn Rio gồm 27 nguyên tắc cơ
bản về vấn đề môi trường và phát triển. Còn Chương trình nghị sự 21 là một văn kiện
đồ sộ gồm 40 chương, được xem là khuôn khổ hành động cấp quốc gia và quốc tế đầu
tiên vì sự PTBV. Điểm đặc biệt trong văn kiện này là sự nhấn mạnh yếu tố con người,
bên cạnh yếu tố môi trường trong nội hàm khái niệm PTBV bởi con người là mục tiêu
và động lực của sự phát triển. Đây là sự phát triển mới đi đến hoàn thiện cơ bản về nội
hàm khái niệm.12
+ Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV được tổ chức tại
Johannesburg (Nam Phi) với 166 nước tham dự. Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố
Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện PTBV, khẳng định lại các nguyên tắc đã đề
ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện Agenda 21. Điểm đáng lưu ý là Hội nghị
này đã cụ thể hóa thêm và phát triển hoàn thiện nội hàm khái niệm với ba trụ cột
chính: bền vững về kinh tế; bền vững về xã hội; bền vững về môi trường.
Vậy, trong 10 năm (từ năm 1992 đến năm 2002) đã có hai Hội nghị quốc tế về
PTBV được tổ chức, điều đó thể hiện:
- Vấn đề PTBV không phải là vấn đề của một quốc gia nào mà là mối quan tâm
chung, mang tính chất toàn cầu, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, các nước đều có sự
ràng buộc chặt chẽ với nhau. Và thành quả PTBV chỉ đạt được khi có sự nỗ lực chung
của các quốc gia trên thế giới.
- Qua các hội nghị, các bản tuyên bố, nội hàm khái niệm không ngừng được bổ
sung với phương pháp tư duy và cách tiếp cận mới, hệ thống, toàn diện, sâu rộng hơn,
nó bao quát các vấn đề kinh tế, xã hội, sinh thái, sự bình đẳng giữa các thế hệ.
- Thể hiện quyết tâm cao của các nước, mong muốn biến ý tưởng PTBV trở
thành hiện thực, thông qua các chương trình, các kế hoạch cụ thể, từ đó định hướng
cho các nước xây dựng chương trình hành động phù hợp với thực tiễn.
Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về PTBV, trong đó, tiêu biểu là khái
niệm trong Chiến lược phát triển bền vững tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp
quốc năm 1992.
Theo đó, “Phát triển bền vững là phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên
việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bền vững môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của
con người hiện nay và không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc
thỏa mãn nhu cầu của họ” [38, tr.3].
Khái niệm trên đã bao quát được hai vấn đề cơ bản của PTBV:
Thứ nhất, PTBV phải là sự phát triển kinh tế, xã hội lành mạnh trên cơ sở sử
dụng hợp lý tài nguyên môi trường.
- Phát triển kinh tế bền vững đó là sự phát triển kinh tế hướng đến thỏa mãn
những tiêu chí như: tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, nâng cao hàm lượng khoa học -
công nghệ trong sản xuất, chú trọng phát triển “công nghệ sạch” và sử dụng tiết kiệm,
có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
- Phát triển xã hội bền vững nhấn mạnh việc phát triển con người và vấn đề
công bằng xã hội. Tức là ta phải đảm bảo được công bằng xã hội trong phân phối,
cung cấp đủ các dịch vụ y tế, giáo dục, dịch vụ công cộng đến mọi người dân; phải tạo
điều kiện cho con người có cơ hội được bộc lộ, phát triển năng lực bản thân và cải
thiện chất lượng cuộc sống.
- Bền vững về môi trường sinh thái thể hiện ở việc duy trì sự cân bằng giữa bảo
vệ môi trường tự nhiên với khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con
người sao cho việc khai thác đó ở một giới hạn nhất định, cho phép môi trường tiếp tục
hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên Trái đất.
Ba nội dung trên cũng chính là ba mục tiêu, ba tiêu chí hợp thành sự PTBV, nó
có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau và là tiền đề, điều kiện
cho sự PTBV. Mặc dù mỗi nhân tố có vai trò, vị trí riêng trong phát triển song đó
không phải là phép cộng giản đơn của các số hạng kinh tế, xã hội, môi trường mà là sự
kết hợp hài hòa giữa các nhân tố để kiến tạo nên sự PTBV.
Thứ hai, PTBV còn phải đảm bảo sự công bằng giữa các thế hệ trong việc sử
dụng tài nguyên môi trường. Điều đó có nghĩa là sự tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử
dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống vừa thỏa mãn được nhu cầu
của thế hệ hôm nay nhưng cũng không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu
và môi trường sống của các thế hệ mai sau.
Như vậy, nếu trước đây sự phát triển thiên về tăng trưởng kinh tế để lại nhiều hệ
lụy về vấn đề môi trường và xã hội, thì ngày nay PTBV dường như tất yếu trở thành
cách phát triển của xã hội hiện đại để đem lại sự phát triển hài hòa mọi mặt.
Nói như PGS.TS Hà Huy Thành thì: “phát triển bền vững là sự phát triển được hình
thành trong cách sản xuất, trong cách phát triển và tổ chức thích ứng
nền kinh tế - xã hội trong mỗi quốc gia và ở tầm toàn cầu” [38, tr.9].
1.1.2. Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển bền vững.
Cùng với sự phát triển của thế giới, từ sau năm 1986, Việt Nam đã sớm tiếp thu
tư tưởng về PTBV. Đáng chú ý là năm 1991, Chính phủ đã thông qua “Kế hoạch quốc
gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000”. Đây là một trong
những kế hoạch quốc gia đầu tiên được xây dựng theo quan điểm PTBV, tạo tiền đề
cho quá trình PTBV ở Việt Nam.14
Tiếp đó là Chỉ thị số 36-CT/TW về việc “Tăng cường công tác bảo vệ môi
trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ngày 25-6-1998 của Bộ
Chính trị. Chỉ thị đã nêu quan điểm của Việt Nam là “Bảo vệ môi trường là một nội
dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển
bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[32,
tr.4].
Nắm bắt được xu thế chung của thời đại và yêu cầu cấp thiết khi đẩy mạnh tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII lần đầu tiên đã đưa vào trong Văn kiện thuật ngữ PTBV. Trong những bài
học kinh nghiệm rút ra sau 10 năm Đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng
kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái” [9, tr.459]. Tuy nhiên vấn đề PTBV chủ
yếu nhấn mạnh đến phương diện kinh tế và xã hội: “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu
quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội” [9, tr.168]. Và
tiêu chí để đánh giá sự PTBV chưa có sự lồng ghép yếu tố môi trường: “Lấy hiệu quả
kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án
đầu tư và công nghệ” [9, tr.471].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) đã đánh dấu mốc quan trọng
trong hiện thực hóa chủ trương PTBV của Việt nam thể hiện trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010). Quan điểm của Đảng ta là: “Phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường….Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi
trường, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” [9, tr.699-700].
Vậy, quan điểm PTBV của Đảng ta về cơ bản là phù hợp với xu hướng chung
của thế giới, thêm vào đó, trong “Đường lối phát triển kinh tế”, Đảng ta còn mở rộng
nội hàm khái niệm, đó là kết hợp phát triển kinh tế với lĩnh vực văn hóa, an ninh quốc
phòng để phù hợp với hai nhiệm vụ chiến lược ở Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Để mục tiêu PTBV, nhất là vấn đề môi trường được đảm bảo thực hiện, Đảng ta
nhấn mạnh: “Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là
một tiêu chí quan trọng trong đánh giá các giải pháp phát triển” [9, tr.700].
Nếu như trong các Văn kiện trước đó Đảng ta chưa nhấn mạnh đến yếu tố môi
trường trong phát triển thì Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt yếu tố môi trường
vào hệ quy chiếu và trở thành một thước đo quan trọng hàng đầu, cùng với nhân tố
kinh tế và xã hội để đánh giá sự phát triển. Điều đó thể hiện nhận thức sâu sắc và quyết
tâm của Đảng ta nhằm bảo vệ và cải thiện môi trường - cái nôi của sự sống con người -
trong từng bước phát triển. Quan điểm của Đại hội chính là định hướng chủ đạo để
mọi chính sách của Nhà nước hiện thực hóa mục tiêu PTBV.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) tiếp tục nâng cao hơn nữa vấn
đề PTBV thông qua việc coi đó là một bài học kinh nghiệm, bài học về “Phát triển
nhanh và bền vững” với nội dung: “Phát triển nhanh phải đi đôi với nâng cao tính bền
vững…phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con
người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời
sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Từng bước thu
hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường ngay trong từng bước phát triển, phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm ổn định
chính trị - xã hội; coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững” [9,
tr.178-179].
Quan điểm về phát triển nhanh và bền vững là sự chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt và
phù hợp với tình hình ở Việt Nam hiện nay. Phát triển nhanh đặt ra hết sức cấp thiết,
để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trên thế giới. PTBV để đảm bảo sự
phát triển hài hòa vì con người và cũng là cơ sở để phát triển nhanh. Điều đó thể hiện
một mối quan hệ biện chứng giữa phát triển nhanh và PTBV.
So với quan điểm tại Đại hội Đảng lần thứ IX, tư duy về PTBV ở Đại hội này đã
phát triển sâu sắc hơn, chú ý đến các chiều cạnh của sự phát triển: ở cả tầm vĩ mô và vi
mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn, số lượng và chất lượng, chiều rộng và chiều sâu. Ở
mọi giác độ của sự phát triển, Đảng ta đều quán triệt việc thực hiện PTBV. Có thể nói,
PTBV đã thực sự trở thành quan điểm chủ đạo, thành nguyên tắc trong thiết kế phát
triển đất nước.
Từ bài học về phát triển nhanh và bền vững, tại Đại hội Đảng lần thứ XI (năm
2011), Đảng ta lại nhấn mạnh một lần nữa và đã đưa thành quan điểm phát triển đầu
đồng thời đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là lượng lao động trẻ
tuổi.
Trong xây dựng và hoàn thiện chính sách lao động và việc làm cần chú ý đến
việc Nhà nước dành vốn đầu tư của mình và huy động vốn trong xã hội để giải quyết
việc làm, giảm số lao động thất nghiệp.
Nhà nước có chính sách khuyến khích người lao động tự tạo ra việc làm,
khuyến khích các doanh nghiệp phát triển ngành nghề sử dụng nhiều lao động. Coi
trọng giải quyết việc làm cho nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị thu hồi
phục vụ cho việc đô thị hóa, xây dựng các khu công nghiệp và các hoạt động khác.
Có chính sách tiếp tục khuyến khích thực hiện có hiệu quả chương trình xuất
khẩu lao động, tăng tỷ lệ xuất khẩu lao động đã qua đào tạo, khuyến khích việc tổ chức
chặt chẽ các hoạt động này và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. Chính
sách lao động và việc làm được xây dựng và hoàn thiện cần hướng tới việc tiếp tục
hoàn thiện thể chế thị trường lao động, đảm bảo hài hòa lợi ích của người lao động và
người sử dụng lao động. Xây dựng và hoàn thiện chính sách bảo hiểm và trợ cấp thất
nghiệp.
* Chính sách về lương và phụ cấp
Đây là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm và gây bức xúc
trong xã hội. Đã qua khá nhiều lần điều chỉnh chính sách tiền lương, song Nhà nước
vẫn chưa cải thiện căn bản những bức xúc của những người hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước.
Nhà nước cần có chuyển biến căn bản về xây dựng và hoàn thiện chính
sách tiền lương theo hướng mức lương tối thiểu phải đảm bảo cuộc sống tối thiểu của
những người hưởng mức lương này, tiền lương thực sự là động lực thúc đẩy người
hưởng lương vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ và thăng tiến để được hưởng mức
lương cao hơn, góp phần quan trọng hạn chế và ngăn chặn tình trạng người có năng
lực, phẩm chất tốt làm việc trong các cơ quan Nhà nước, các cơ quan hành chính, sự
nghiệp hưởng lương từ ngân sách Nhà nước chuyển sang nơi có thu nhập cao hơn.
Chính sách tiền lương cũng cần được hoàn thiện theo hướng từng bước khắc phục sự
bất bình đẳng về lương.
Nhà nước cần có chính sách phụ cấp hợp lý (gồm các loại phụ cấp như trách
nhiệm, nghề nghiệp, độc hại, tiền thưởng, tiền phụ cấp trong các dịp lễ, tết...). Chính82
sách ấy có thể khống chế ở mức độ cần thiết không để xảy ra sự chênh lệch quá lớn
nhất là trong các dịp lễ, tết.
* Chính sách xóa đói giảm nghèo
Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách xóa đói, giảm nghèo,
khắc phục những hạn chế trong các chính sách này, đảm bảo tính đồng bộ, toàn diện
để có thể tạo chuyển biến căn bản về xóa đói, giảm cùng kiệt trong thời gian tới.
Có chính sách khuyến khích việc thực hiện các chương trình xóa đói, giảm
cùng kiệt trên phạm vi cả nước thông qua việc đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, có chính sách thu hút đầu
tư, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chính sách cho vay vốn ưu đãi đối với
các hộ cùng kiệt đúng đối tượng, nhanh, gọn và hợp lý về thủ tục.
Xây dựng và hoàn thiện chính sách phòng, chống thiên tai, chăm sóc sức khỏe
và chữa bệnh miễn phí cho những đối tượng đặc biệt khó khăn, hạn chế đến mức tối đa
số hộ tái cùng kiệt do hậu quả của thiên tai, bệnh tật.
* Chính sách bảo hiểm
Xây dựng và hoàn thiện chính sách bảo hiểm theo hướng mở rộng các đối tượng
bảo hiểm và lĩnh vực bảo hiểm. Cụ thể là mở rộng bảo hiểm đến những người lao động
trong các doanh nghiệp tư nhân và nông dân không chỉ bó hẹp trong những người làm
việc trong khu vực Nhà nước, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Coi trọng bảo
hiểm y tế với những người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn không nơi nương tựa khi già
yếu. Mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến những công nhân lao động trong các
thành phần kinh tế ngoài Nhà nước. Có chính sách, chế tài buộc chủ doanh nghiệp tư
nhân mua bảo hiểm xã hội cho công nhân và người lao động trong các doanh nghiệp
của họ. Có chính sách khuyến khích việc thực hiện bảo hiểm xã hội đối với nông dân.
Cần có chính sách mở rộng lĩnh vực bảo hiểm ra các lĩnh vực và thu hút đông đảo
nhân dân tham gia bảo hiểm về sản xuất, kinh doanh, cây trồng, vật nuôi...
* Chính sách văn hóa
Xây dựng và hoàn thiện các chính sách văn hóa đáp ứng yêu cầu công bằng xã
hội trong hưởng thụ hóa nghệ thuật giữa các vùng, miền, các tầng lớp xã hội. Tiếp tục
hoàn thiện các chính sách, tạo điều kiện phát triển nền văn hóa của các dân tộc, các
vùng miền và tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cho mọi công dân hưởng thụ văn hóa nghệ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi83
thuật. Hoàn thiện các chính sách đầu tư hợp lý, có trọng điểm và ưu tiên cho việc phát
triển cơ sở hạ tầng văn hóa ở vùng núi, vùng khó khăn.
3.3.3. Đối với lĩnh vực môi trường
Trong quá trình xây dựng chính sách, Nhà nước cần chú trọng vào việc thực
hiện các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường là chính, tăng cường giám sát ô
nhiễm môi trường tại nguồn; đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, các chương trình, dự án đầu tư. Các dự án,
công trình đầu tư mới bắt buộc phải thực hiện nghiêm các quy định về bảo vệ môi
trường.
Trong quản lý, khai thác tài nguyên thiên nhiên, cần hiệu quả, tiết kiệm tài
nguyên và phải đảm bảo sự cân bằng hệ sinh thái. Các chính sách kinh tế của Nhà
nước cần chú trọng phát triển một nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường,
phát triển nguồn năng lượng mới như gió, thủy triều, mặt trời...để thay thế năng lượng
truyền thống, có chính sách khuyến khích việc sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Theo một
nghiên cứu đã chỉ ra rằng hơn 20 năm qua lối sống tiêu dùng của chúng ta đã vượt quá
khả năng chịu tải của Trái đất. Và nếu tất cả mọi người đều sống như kiểu nước Mỹ thì
chúng ta cần đến 5 hành tinh như Trái đất. Vì vậy, cần thay đổi mô hình tiêu dùng
theo hướng bền vững, tức là thực hiện Tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, Tái chế
và tái sử dụng nhiều lần phế thải và thực hiện lối sống Thân thiện với môi trường.
Thực hiện mô hình tiêu dùng 3T này sẽ góp phần: tăng cường năng lực cạnh tranh
quốc gia; tăng cơ hội tiếp cận hàng hóa, dịch vụ cho người nghèo, giảm khoảng cách
giầu nghèo, góp phần ổn định xã hội; ổn định thời tiết khí hậu và giảm tần suất, cường
độ thiên tai; bảo vệ môi trường; đáp ứng được nhu cầu cuộc sống hiện tại nhưng còn
để lại tài nguyên thiên nhiên và môi trường trong lành cho con cháu mai sau.
Bên cạnh việc lồng ghép các yếu tố môi trường ngay từ khâu xây dựng, phê
duyệt các quy hoạch dự án đầu tư, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, Nhà nước cần có
những quy định về việc quản lý chất thải rắn tại nguồn, thể chế hóa và thực hiện
nghiêm chỉnh nguyên tắc người gây thiệt hại đối với môi trường phải khắc phục, bồi
thường. Xây dựng cơ chế thu phí, ký quỹ môi trường, cơ chế chuyển nhượng, trao đổi
quyền phát thải vì trách nhiệm của cá nhân, tổ chức. Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám
sát và tăng mức độ các biện pháp chế tài đối với cơ sở gây ô nhiễm, không tuân thủ
các quy định về bảo vệ môi trường.84
Nhà nước cần đảm bảo việc quản lý và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên thông qua việc xây dụng một hệ thống công cụ quản lý gồm các tiêu chuẩn,
thông số kỹ thuật...; hoàn thiện các thiết chế về tổ chức thực hiện bảo vệ môi trường
như cảnh sát môi trường, kiểm lâm; xây dựng cơ sở pháp lý đối với các lĩnh vực tài
nguyên môi trường, đảm bảo sử dụng hiệu quả, bền vững các loại tài nguyên thiên
nhiên như: đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên rừng, biển...Và
trên hết, Nhà nước cần khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội, hay thực hiện xã hội
hóa hoạt động bảo vệ môi trường thông qua các biện pháp tuyên truyền, giáo dục
nhằm nâng cao ý thức bảo vệ và gìn giữ môi trường sống của mỗi người, đặc biệt là
thế hệ trẻ ngay khi họ đang ngồi trên ghế nhà trường. Đồng thời, quy định rõ trách
nhiệm pháp lý trong công tác bảo vệ môi trường nhất là đề cao trách nhiệm các cơ sở
sản xuất, dịch vụ; tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các loại hình tổ chức
đánh giá, tư vấn, giám định, công nhận, chứng nhận bảo vệ môi trường và khuyến
khích mọi thành phần tham gia thu gom và tái chế và phát triển các dịch vụ khác bảo
vệ môi trường...
Bên cạnh đó, để đảm bảo đáp ứng yêu cầu về môi trường trong hội nhập kinh tế
quốc tế, Nhà nước cũng cần có các quy định về tiêu chuẩn, chính sách, cơ chế, thủ tục
công nhận, chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường phù hợp với điều kiện trong nước và
tiêu chuẩn quốc tế, để bảo đảm thuận lợi cho hàng hóa sản xuất trong nước không bị
các rào cản môi trường khi xuất khẩu. Đồng thời, có quy định cụ thể về việc kiểm soát,
phát hiện, ngăn chặn việc chuyển chất thải, công nghệ lạc hậu vào nước ta.
Qua nghiên cứu các chính sách về kinh tế, xã hội và môi trường, ta thấy rằng
trong mỗi lĩnh vực, Nhà nước đều có những biện pháp cụ thể để phát triển đồng thời
các trụ cột PTBV. Tuy nhiên, việc kết hợp các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường
trong các chính sách không phải là dễ dàng, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách và
những cán bộ thực hiện chính sách phải không ngừng nâng cao trình độ văn hóa chính
trị; trong mỗi chương trình, dự án, kế hoạch phát triển, cần có đánh giá tác động môi
trường bên cạnh việc cân nhắc các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội; trong điều kiện
khó khăn, có thể ưu tiên cho phát triển kinh tế, nhưng trong mức giới hạn nhất định
phải bảo đảm công bằng xã hội và sức chịu đựng của môi trường.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi85
3.4 Xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh và hiệu quả
Báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1997 đã có đoạn viết như sau:
‘‘Một nhà nước hoạt động có hiệu quả có thể đóng góp rất nhiều cho sự phát
triển bền vững và giảm đói nghèo. Nhưng chẳng có đảm bảo nào cho rằng mọi can
thiệp của nhà nước đều sẽ mang lại lợi ích cho xã hội. Độc quyền của nhà nước về
cưỡng chế, cái mang lại cho quyền lực nhà nước quyền lực can thiệp một cách có hiệu
lực vào hoạt động kinh tế, cũng mang lại cho nhà nước quyền can thiệp một cách độc
đoán chuyên quyền. Quyền lực này, cộng với việc thâm nhập nguồn thông tin mà dân
chúng bình thường không có được tạo ra những cơ hội cho các công chức xúc tiến
những lợi ích của riêng họ hay những bạn bè hay đồng minh của họ, làm thiệt hại
cho lợi ích chung. Những khả năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn. Do đó, các
nước phải cố gắng thiết lập và nuôi dưỡng những cơ chế mang lại cho các cơ quan
nhà nước sự mềm dẻo và sự khuyến khích để hoạt động vì lợi ích chung, đồng thời
kiềm chế những hành vi độc đoán tham nhũng trong cách cư xử với các doanh nghiệp
và công dân’’ [7, tr.126].
Có nhiều nhân tố đóng góp vào sự PTBV của một quốc gia, trong đó vai trò
quản lý hiệu quả của nhà nước là nhân tố chủ quan quyết định nhất. Về cơ bản, các
nhà nước đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của nhân dân, khắc phục
cơ bản những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, thiết lập được cơ sở pháp luật, duy
trì trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường....Dưới góc độ Chính trị học, một quốc gia
PTBV khi và chỉ khi có một nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu lực và hiệu quả.
Thực vậy, ‘‘nhà nước rất cần thiết cho cuộc sống con người. Cho đến hiện nay và một
tương lai cho cả sau này, con người không thể sống thiếu nhà nước trong một trạng
thái vô chính phủ, ít nhất là cho đến khi xây dựng song chủ nghĩa cộng sản’’, [7,
tr.13]. Tuy nhiên, bên cạnh sự cần thiết như vậy thì ta cũng thấy rằng nhà nước luôn
luôn có xu hướng lạm quyền. Tham nhũng, độc tài, chuyên chế đã trở thành căn bệnh
chung của mọi xã hội có nhà nước. Điều này được lý giải từ trong bản chất của con
người. Con người của chúng ta, bên cạnh những đức tính sáng tạo, chăm chỉ, còn chứa
đựng cả những đức tính lười nhác, tùy tiện, tính tham lam, ỷ lại, tính thích dựa dẫm
vào những người khác, và nhất là tính cách đam mê quyền lực. Con người đam mê
quyền lực bởi một khi có quyền lực trong tay, con người có thể đạt được nhiều thứ
quyền lợi khác như của cải, danh vọng, quyền được sai khiến người khác...Mà quyền

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top