nhuquynh2003us

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỞ ĐẦU

Ta biết rằng trong phần lớn thế kỷ 20, sức mạnh kinh tế của một quốc gia dựa trên đầu tư vào tư liệu sản xuất và cải tiến quá trình sản xuất. Nhưng ngày nay cải tiến kỹ thuật không còn bị giới hạn trong những máy móc nhập khẩu vốn dĩ có thể mua được dễ dàng trên thị trường, mà còn gắn với việc tiêu thụ hàng hóa. Những ngành xuất khẩu tăng trưởng phát triển nhất trên thế giới như sản xuất chất bán dẫn, máy tính, thiết bị truyền thông, dược phẩm có chi phí sản xuất không đáng kể so với chi phí và thời gian nghiên cứu để làm ra sản phẩm đó. Việc sản xuất những sản phẩm này trên thực tế có thể được đặt ở Việt nam, nhưng công nghệ điện tử, sinh - hóa, và việc nghiên cứu lý thuyết để làm ra những sản phẩm đó, kể cả việc làm gia tăng giá trị thặng dư, thì được sáng tạo ở các trường đại học của các nước phát triển. Trường đại học là cỗ máy quan trọng nhất trong cuộc cách mạng tri thức.
Vì lý do đó mà giáo dục đại học luôn được xã hội quan tâm. Trong những năm gần đây, đổi mới giáo dục luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm. Một trong những nội dung trọng tâm nhất của đổi mới giáo dục là đưa học chế TC áp dụng vào các trường Đại học, Cao đẳng ở Việt nam. Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, nhiều trường ĐH ở Việt nam đã áp dụng học chế TC trong đó có Trường ĐH KTQD. Việc áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ là một tiền đề để chất lượng đào tạo của chúng ta bát kịp với nền giáo dục thế giới. Trong ba năm qua, việc áp dụng học chế tín chỉ đã cho thấy nhiều ưu điểm nhưng cũng xuất hiện không ít những khó khăn, bất cập đòi hỏi chúng ta phải giải quyết. Để làm sáng rõ thực trạng áp dụng học chế TC vào việc đào tạo của Trường ĐH KTQD chúng tui xin chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo theo học chế TC của Trường ĐH KTQD "làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình. Hy vọng qua đề tài này chúng tui sẽ góp một phần nhỏ bé của mình vào việc làm sáng rõ thực trạng áp dụng đào tạo TC vào trường ĐH KTQD dưới con mắt một sinh viên và có một số các giải pháp và kiến nghị nhỏ để Ban giám hiệu nhà trường và các cơ quan hữu quan có nhiều căn cứ hơn để có các điều chỉnh và cải biến hợp lý.
Việc nghiên cứu đề tài này được thực hiện theo phương pháp điều tra xã hội học có chọn mẫu, phương pháp tổng hợp phân tích, phương pháp so sánh đánh giá và phương pháp nghiên cứư điển hình.
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về học chế TC và đào tạo ĐH theo học chế TC.
Chương 2: Thực trạng áp dụng đào tạo theo học chế TC ở trường ĐH KTQD.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo the học chế TC.

Chương 1: Khái quát chung về học chế TC và đào tạo DH theo học chế TC

1.1. Khái quát chung về học chế TC
1.1.1. Khái niệm về tín chỉ
Trong kho tàng các tư liệu nghiên cứu, có khoảng hơn 60 định nghĩa về tín chỉ. Có định nghĩa coi trọng khía cạnh định tính, có định nghĩa coi trọng khía cạnh định lượng, có định nghĩa nhấn mạnh vào chuẩn đầu ra của sinh viên, có định nghĩa lại nhấn mạnh vào các mục tiêu của một chương trình học. Một định nghĩa về tín chỉ được các nhà quản lí và các nhà nghiên cứu giáo dục ở Việt Nam biết đến nhiều nhất có lẽ là của học giả người Mĩ gốc Trung Quốc James Quann thuộc Đại học Washington. Trong buổi thuyết trình về hệ thống đào tạo theo tín chỉ tại Đại học Khoa học Công Nghệ Hoa Trung, Vũ Hán mùa hè năm 1995, học giả James Quann trình bày cách hiểu của ông về tín chỉ như sau:
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm; thời gian lên lớp; thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hay các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu; và thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hay chuẩn bị bài...; đối với các môn học lí thuyết một tín chỉ là một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị bài) trong một tuần và kéo dài trong một học kì 15 tuần; đối với các môn học ở studio hay phòng thí nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1 giờ chuẩn bị); đối với các môn tự học, ít nhất là 3 giờ làm việc trong một tuần. (Bản dịch của Bộ giáo dục và Đào tạo).
Từ định nghĩa trên, kết hợp với nghiên cứu những định nghĩa khác về tín chỉ và thực tế đào tạo của đơn vị, tín chỉ theo cách hiểu của ĐHQGHN được cụ thể hóa như sau:
Tín chỉ là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức, kĩ năng của một môn học mà người học cần tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định thông qua các hình thức: học tập trên lớp; học tập trong phòng thí nghiệm, thực tập hay làm các phần việc khác (có sự hướng dẫn của giáo viên1); và tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề hay chuẩn bị bài v.v. Tín chỉ còn được hiểu là khối lượng lao động của người học trong một khoảng thời gian nhất định trong những điều kiện học tập tiêu chuẩn. (ĐHQGHN 2006)
Trong thực tế ở một số Trương ĐH Việt nam hay cụ thể hơn là ở Trường chúng ta, theo nhóm nghiên cứu của chúng em TC lại được hiểu gần giốn như một đơn vị học trình và một môn học được đo bằng nhiều TC. Mỗi một môn học hoàn thành thì sinh viên coi như đã tích l số TC theo quy định.
1.1.2. Đặc điểm của đào tạo theo hoc chế TC
• Đòi hỏi sinh viên phải tích luỹ kiến thức theo từng học phần (tín chỉ);
• Kiến thức cấu trúc thành các môđun (học phần);
• Quy định khối lượng kiến thức phải tích luỹ cho từng văn bằng. Xếp năm học của người học theo khối lượng tín chỉ tích luỹ;
• Chương trình đào tạo mềm dẻo (có học phần bắt buộc và học phần tự chọn);
• Đánh giá thường xuyên, thang điểm chữ;
• Dạy học lấy sinh viên làm trung tâm;
• Đơn vị học vụ là học kỳ. Mỗi năm có thể chia thành 2 học kỳ (15 tuần); 3 học kỳ (15 tuần); hay 4 học kỳ (10 tuần);
• Ghi danh học đầu mỗi học kỳ, lớp học tổ chức theo mỗi học phần;
• Có hệ thống cố vấn học tập;
• Có thể tuyển sinh theo học kỳ;
• Không thi tốt nghiệp, không tổ chức bảo vệ khoá luận tốt nghiệp đối với các chương trình đại học hay cao đẳng;
• Chỉ có 1 văn bằng chính quy đối với 2 loại hình tập trung và không tập trung;
1.1.3. Những ưu, nhược điểm của việc đào tạo theo học chế TC.
- Ưu điểm:
+ Có hiệu quả đào tạo cao
Học chế TC cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích luỹ kiến thức và kỹ năng của SV để dẫn đến văn bằng. Với học chế này, SV được chủ động thiết kế kế hoạch học tập cho mình, được quyền lựa chọn cho mình tiến độ học tập thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh riêng của mình. Điều đó đảm bảo cho quá trình đào tạo trong các trường đại học trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng tạo khả năng cho việc thiết kế chương trình liên thông giữa các cấp đào tạo đại học và giữa các ngành đào tạo khác nhau.
Học chế TC cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích luỹ được ngoài trường lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích SV từ nhiều nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học đại học một cách thuận lợi. Về phương diện này có thể nói học chế TC là một trong những công cụ quan trọng để chuyển từ nền đại học mang tính tinh hoa thành nền đại học mang tính đại chúng.

+ Có tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao
Với học chế TC, SV có thể chủ động ghi tên học các học phần khác nhau dựa theo những quy định chung về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực kiến thức. Nó cho phép SV dễ dàng thay đổi ngành chuyên môn trong tiến trình học tập khi thấy cần thiết mà không phải học lại từ đầu.
Với học chế TC, các trường đại học có thể mở thêm ngành học mới một cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và tình hình lựa chọn ngành nghề của sinh viên.
Học chế TC cung cấp cho các trường đại học một ngôn ngữ chung, tạo thuận lợi cho SV khi cần chuyển trường cả trong nước cũng như ngoài nước.
+ Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo
Với học chế TC, kết quả học tập của SV được tính theo từng học phần chứ không phải theo năm học, do đó việc hỏng một học phần nào đó không cản trở quá trình học tiếp tục, SV không bị buộc phải quay lại học từ đầu. Chính vì vậy giá thành đào tạo theo học chế TC thấp hơn so với đào tạo theo niên chế.
Nếu triển khai học chế TC các trường đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ chức những môn học chung cho SV nhiều trường, nhiều khoa, tránh các môn học trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra SV có thể học những môn học lựa chọn ở các khoa khác nhau. Cách tổ chức nói trên cho phép sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất cho từng môn học. Kết hợp với học chế TC, nếu trường đại học tổ chức thêm những kỳ thi đánh giá kiến thức và kỹ năng của người học tích luỹ được bên ngoài nhà trường hay bằng con đường tự học để cấp cho họ một TC tương đương, thì sẽ tạo thêm cơ hội cho họ đạt văn bằng đại học. ở Mỹ trên một nghìn trường đại học chấp nhận cung cấp TC cho những kiến thức và kỹ năng mà người học đã tích luỹ được ngoài nhà trường.
- Nhược điểm:
+ Cắt vụ kiến thức
Phần lớn các môđun trong học chế TC được quy định tương đối nhỏ, cỡ 3 hay 4 TC, do đó không đủ thời gian để trình bày kiến thức thật sự có đầu, có đuôi, theo một trình tự diễn biến liên tục, từ đó gây ấn tượng kiến thức bị cắt vụn.
+ Khó tạo nên sự gắn kết trong sinh viên
Vì các lớp học theo môđun không ổn định, khó xây dựng các tập thể gắn kết chặt chẽ như các lớp theo khóa học nên việc tổ chức sinh hoạt đoàn thể của SV có thể gặp khó khăn. Chính vì nhược điểm này mà có người nói học chế TC "khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng tính cộng đồng".
1.2. Tình hình áp dụng học chế TC vào đào tạo ĐH trên thế giới
Trước hết cần khẳng định rằng cách đào tạo theo tín chỉ là sản phẩm trí tuệ của người Mĩ. Nó được hình thành và phát triển để phục vụ cho các mục đích cụ thể của nền giáo dục nước này. Vào cuối thế kỉ 19, ở Mĩ số lượng học sinh trung học phổ thông ghi danh vào học đại học ngày càng tăng, gây áp lực không nhỏ cho quá trình xét tuyển của các trường đại học.
Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi SV có thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại học phải nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc sống, vào năm 1872 Viện Đại học Harvard đã quyết định thay thế hệ thống chương trình đào tạo theo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống chương trình mềm dẻo cấu thành bởi các môđun mà mỗi SV có thể lựa chọn một cách rộng rãi. Có thể xem sự kiện đó là điểm mốc khai sinh học chế tín chỉ
Đến đầu thế kỷ 20 hệ thống TC được áp dụng rộng rãi hầu như trong mọi trường đại học Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước lần lượt áp dụng hệ thống TC trong toàn bộ hay một bộ phận của trường đại học của mình: các nước Bắc Mỹ, Nhật Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, ấn Độ, Senegal, Mozambic, Nigeria, Uganda, ... Tại Trung Quốc từ cuối thập niên 80 đến nay hệ thống TC cũng lần lượt được áp dụng ở nhiều trường đại học. Vào năm 1999, 29 bộ trưởng đặc trách giáo dục đại học ở các nước trong Liên minh châu Âu đã ký Tuyên ngôn Boglona nhằm hình thành Không gian Giáo dục đại học Châu Âu (European Higher Education Area) thống nhất vào năm 2010, một trong các nội dung quan trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế TC (European Credit Transfer System -ECTS) trong toàn hệ thống GDĐH để tạo thuận lợi cho việc cơ động hóa, liên thông hoạt động học tập của SV trong khu vực châu Âu và trên thế giới.
Có thể nói hiện nay, học chế tín chỉ là một hình thức giáo dục được nhiều nước áp dụng một cách toàn diện vào nền giáo dục của nước mình. Đặc biệt là Mỹ - nơi khai sinh ra học chế tín chỉ.
1.3. Chủ trương chính sách của Đảng trong đổi mới Giáo Dục.
Đào tạo theo học chế tín chỉ là 1 trong 7 bước đi quan trọng trong lộ trình đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2006-2020. Theo chủ trương của Bộ GD-ĐT, ngay trong năm học 2006-2007, các trường phải tập trung triển khai đào tạo học chế tín chỉ và phải hoàn thành vào năm 2010.
Đáp ứng nhu cầu đào tạo ngày càng lớn, yêu cầu chất lượng đào tạo ngày một cao, Đảng và Chính phủ Việt nam luôn coi đổi mới GD là một vấn đề quan trọng. Chủ trương áp dụng học chế TC và đào tạo ĐH và CĐ của Đảng và Chính phủ thể hiện rất rõ trong các văn bản luật và nghị quyết, nghị định và chỉ thị của chính phủ và Bộ GD-ĐT:
- Luật Giáo dục sửa đổi (được Quốc hội thông qua 20/5/2005): "Về chương trình giáo dục: Đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học có thể được tiến hành theo hình thức tích luỹ tín chỉ hay theo niên chế" (GD&TĐ ngày 18/6/2005)
- Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020: "Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài".
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 31/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ.
- Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học (ban hành theo Quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 2/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo): Tiêu chuẩn 4, tiêu chí 2: "Thực hiện chế độ công nhận kết quả học tập của người học (tích luỹ theo học phần); chuyển quy trình tổ chức đào tạo theo niên chế sang học chế tín chỉ".
Mức 1: Thực hiện chế độ tích luỹ kết quả học tập theo từng học phần. Có kế hoạch tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ.
Mức 2: Tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ đi vào ổn định.

1.4. Đôi nét về tình hình áp dụng học chế TC vào giáo dục ĐH ở Việt nam trong những năm vừa qua.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hiện nay ở Việt nam đã có hơn 10 trường áp dụng học chế TC vào đào tạo ĐH và CĐ trong đó điển hình là Trường ĐH Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, Trường ĐH Quốc gia Hà nội, ĐHXây Dựng, ĐH Dân lập Phương Đông … Và Trường ĐH KTQD của chúng ta cũng tiến hành áp dụng hình thức đào tạo này từ năm học 2006-2007, thí điểm với SV khoá 48.
Việc áp dụng học chế tín chỉ tuy đã đạt được những thành tựu bước đầu đáng ghi nhận như: Đặt những tiền đề quan trọnh cho việc nâng cao chất lượng đào tạo, mở rông quy mô đào tạo, tạo cơ hội cho SV phát huy tính chủ động trong việc chọn môn học và thực hiện quá trình học tập, Giúp Giáo viên và sinh viên có cơ hội tiếp cận với một nền giáo dục tiên tiến hơn.
Nhưng bên cạnh đó cũng không thể phủ nhận rằng việc áp dụng học chế tín chỉ và Việt nam cũng bộc lộ rõ nhiều bất cập đáng chú ý. Tiêu biểu như:
+ Mỗi trường một kiểu
+ Nhiều trường cảm giác hụt hơi và có ý định quay lại với học chế liên chế vì cơ sở vật chất còn thấp chưa phù hợp.
+ Chấp nhận đào tạo tín chỉ theo kiểu giao thoa.
+ Học tín chỉ nhưng chua quen.
Với thực trạng trên, một câu hỏi được nhiều người đặt ra trên các phương tiện thông tin đại chúng là liệu mục “ tiêu đến năm 2010, các trường ĐH cơ bản chuyển sang ĐTTC” có phải là một mục tiêu quá tham vọng?
3.1.11. Cuối cùng, phải đẩy mạnh hoạt động kiểm tra kiểm soát đối với quá trình triển khai hình thức đào tạo mới
Việc triển khai hình thức đào tạo mới chắc chắn sẽ vấp phải rất nhiều các khó khăn thách thức từ phía chủ quan cũng như khách quan. Để có những điều chỉnh kịp thời cũng như lường trước được những khó khăn thách thức chúng ta phải đảy mạnh công tác kiểm tra giám sát các hoạt động áp dụng hình thức đào tạo mới. Xây dựng một đội ngũ kiểm soát viên dầy dặn kinh nghiêm, có trách nhiệm và trang bị cho họ đầy đủ quyền hạn để đối phó với những sự cố xảy ra.
3.1. Một số kiến nghị
3.2.1. Kiến nghị Chính phủ
Trong những năm qua, vì lợi ích lâu bền của đất nước Chính phủ Việt nam luôn quan tâm đến vấn đề đào tạo thế hệ trẻ, ngành giáo dục luôn là một trong nhưng mối quan tâm hàng đầu. Trường ĐH KTQD được Chính phủ quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đào tạo cán bộ giáo viên trong đó gần đây phải kể đến 2 toà nhà 17 và 21 tầng với trang thiết bị hiện đại làm khu giảng đường trung tâm. Nhưng trong quá trình đầu tư xây dựng cho thấy 2 toà nhà này đang bị chậm tiến độ. việc không thể đưa 2 toà nhà này vào sử dụng đúng dự kiến cũng gây khó khăn không nhỏ cho việc triển khai hình thức đào tạo mới và nâng cao chất lượng đào tạo của trường. Vậy chúng tui xin kiến nghị với Chính phủ có các biện pháp huy động vốn đẩy nhanh tiến độ thi công và đưa 2 toà nhà này vào sử dụng với thời gian ngắn hơn tạo điều kiện giúp nhà trường có cơ sở vật chất tốt phục vụ đào tạo.
3.2.2. Kiến nghị với Bộ GD-ĐT
Bộ giáo dục là nơi ban hành các chỉ thị, các hướng dẫn thi hành các vấn đề giáo dục trong đó có việc đổi mới phương pháp đào tạo mới trong giáo dục bậc ĐH. Trong thời gian vừa qua, Bộ đã có những chỉ thị, hưóng dẫn cụ thể về vấn đề này. Trong thời gian tới, chúng tui xin kiến nghị với Bộ GD-ĐT tiếp tục có những động thái ủng hộ giúp đỡ các trường Đh trong việc áp dụng phương pháp đào tạo mới bằng các văn bản hướng dẫn và có những trợ giúp cụ thể hơn như củ các Chuyên gia, các đoàn công tác xuống trợ giúp các Trường trong công việc quan trọng này.
3.2.3. Kiến nghị với SV trường ĐH KTQD
Trong việc áp dụng phương pháp đào tạo mới, SV sẽ là vấn đề tâm điểm được quan tâm nhiều hơn. Họ phải phát huy được tính chủ động sáng tạo của mình trong quá trình theo học tại nhà trường. Với tính chủ động kém như hiện nay của SV thì việcphát huy lợi thế của phương pháp đào tạo TC sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy chúng tui xin có kiến nghị với SV đang theo học và chuẩn bị theo học ở Trường ĐH KTQD, các bạn hãy phát huy cao tính chủ động của mình trong việc học tập và rèn luyện, chuẩn bị cho mình một kế hoạch cụ thể trong học tập và sẵn sàng vượt qua những khó khăn trở ngại về tâm lý cũng như những khó khăn trở ngại về cơ sở vật chất trong thời kì đầu áp dụng phương pháp đào tạo mới này.

Kết luận
Có thẻ nói việc áp dụng phương pháp đào tạo mới - Học chế TC vào trường ĐH KTQD là một bước đi đúng đắn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu về nhân lực có chất lượng cao trong thời gian tới của Xã hội. Tuy bước đầu vấp phải một số khó khăn trở ngại nhưng phương pháp đào tạo này cơ bản đã đáp ứng tâm tư nguyện vọng của SV cũng nhưng đội ngũ cán bộ giáo viên nhà trường. Việc quan trọng nhất là phải kiên trì đường lối, khắc phục những khó khăn trước mát để đưa phương pháp đào tạo mới này và vận hành một cách có hiệu quả.
Trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài chúng tui đã nhận được sự giúp đỡ tận tình từ PGS.TS Nguyễn Mạnh Quân, một số Cán bộ giáo viên trong trường và các bạn SV trường ĐH KTQD. Chúng tui xin gửi lời Thank chân thành đến PGS.TS Nguyễn mạnh Quân, tập thể Cán bộ giáo viên, các cơ quan hữu quan và tập thể SV trường ĐH KTQD đã giúp đỡ chúng tui hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Khái quát chung về học chế TC và đào tạo DH theo học chế TC 3
1.1. Khái quát chung về học chế TC 3
1.1.1. Khái niệm về tín chỉ 3
1.1.2. Đặc điểm của đào tạo theo hoc chế TC 4
1.1.3. Những ưu, nhược điểm của việc đào tạo theo học chế TC. 5
1.2. Tình hình áp dụng học chế TC vào đào tạo ĐH trên thế giới 7
1.3. Chủ trương chính sách của Đảng trong đổi mới Giáo Dục. 8
1.4. Đôi nét về tình hình áp dụng học chế TC vào giáo dục ĐH ở Việt nam trong những năm vừa qua. 10
Chương 2: Thực trạng áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường ĐH KTQD 11
2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành phát triển và cơ sở vật chất hiện có của trường ĐH KTQD 11
2.1.1. Lịch sử hình thành phát triển 11
2.1.2. Cơ sở vật chất hiện có: 14
2.2. Thực trạng áp dụng đào tạo theo học chế TC ở Trường ĐH KTQD 15
2.2.1. Thực trạng về việc cung cấp thông tin môn học cho SV 15
2.2.2. Tình hình về mô tả môn học 18
2.2.3. Môn học đáp ứng nhu cầu người học đến mức nào? 19
2.2.4. Thực trạng về số lượng và chất lượng học liệu. 21
2.2.5. Thực trạng về thái độ và phương pháp giảng dạy của giáo viên. 24
2.2.6. Tình hình thái độ của học viên khi tham gia học TC 25
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo theo học chế TC Ở Trường ĐH KTQD 28
3.1. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo của Trường ĐH KTQD 28
3.1.1. Nâng cao chất lượng các kênh trao đổi thông tin giữa nhà trường với SV và các đối tượng liên quan 28
3.1.2. Khai thác tốt hơn vai trò của các Cố vấn học tập 28
3.1.3. Nâng cấp hệ thống mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng kí học. 29
3.1.4. Xây dựng hệ thống thư viện hiện đại và đủ lớn để đáp ứng nhu cầu đọc thêm của SV ngoài giờ trên lớp 29
3.1.5. Xây dựng một kho tài liệu giáo trình đủ về số lượng, đảm bảo về chất lương 29
3.1.6. Đẩy mạnh các hoạt độn tập thể, thể dục thể thao, công tác Đoàn 29
3.1.7. Có các biện pháp giáo dục tính chủ động cho SV theo học 30
3.1.8. Xây dựng một quy chuẩn chặt chẽ trong việc thi cử và khảo thí. 30
3.1.9. Có một đội ngũ cán bộ giảng viên có trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình trong công tác giảng dạy và nghiên cứu 30
3.1.10. hải từng bước xây dựng một nền tảng cơ sở vật chất đủ mạnh 31
3.1.11. Cuối cùng, phải đẩy mạnh hoạt động kiểm tra kiểm soát đối với quá trình triển khai hình thức đào tạo mới 31
3.2. Một số kiến nghị 31
3.2.1. Kiến nghị Chính phủ 31
3.2.2. Kiến nghị với Bộ GD-ĐT 32
3.2.3. Kiến nghị với SV trường ĐH KTQD 32
Kết luận 33


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Tìm hiểu về bộ chứng từ trong thanh toán xuất nhập khẩu thực trạng và các giải pháp hoàn thiện tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêm chủng mở rộng tại huyện Tu mơ rông năm 2016 Y dược 0
N Nhờ tải giúp em Thực trạng và các yếu tố tác động đến việc làm thêm của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Luận văn thạc sĩ) - Phan Thị ThuThảo Khởi đầu 3
D Thực trạng công tác kế toán tại công ty cổ phần xây dựng và đầu tư 492 Luận văn Kinh tế 0
T Nhờ tải TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG và THỰC TRẠNG NUÔI DƯỠNG NGƯỜI BỆNH tại KHOA hồi sức TÍCH cực Khởi đầu 1
D Thực trạng công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại FSI Luận văn Kinh tế 0
D Chính sách của việt nam với mỹ và quan hệ việt mỹ những năm đầu thế kỷ XXI, thực trạng và triển vọng Văn hóa, Xã hội 0
D Đánh giá thực trạng công tác giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất trên địa bàn quận Hoàng Mai Văn hóa, Xã hội 0
D Đánh giá thực trạng sản xuất cà phê và giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm Nông Lâm Thủy sản 0
D thực trạng sử dụng thư viện của sinh viên trường đại học khoa học xã hội và nhân văn Luận văn Sư phạm 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top