daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỞ ĐẦU
Trong nền văn học thế giới, văn học Trung Quốc nổi lên như một nền văn học lớn,
có lịch sử lâu dài và ngày càng phát triển với nhiều thành tựu rực rỡ. Văn học Trung
Quốc phát triển với nhiều loại hình đa dạng và nội dung sâu sắc cùng với tên tuổi nhiều
tác giả nổi tiếng thế giới. Việc tìm hiểu văn học Trung Quốc là hết sức cần thiết để hiểu
thêm về nền văn học này cũng như xác định vị thế của nó. Cho đến ngày nay, những
thành tựu mà văn học Trung Quốc đạt được đã có nhiều giá trị to lớn đóng góp vào nền
văn học thế giới.
Trung Quốc có một nền văn học phong phú lâu đời, liên tục 5 nghìn năm. Ngay từ
trước công nguyên (thời cổ đại) nền văn học này đã có những thành tựu rực rỡ như thần
thoại, Kinh Thi, văn xuôi triết học, Sở từ, Sử ký
Sang thời trung đại, Phú thời Hán, Thơ thời Đường, Từ thời Tống và tiểu thuyết
thời Minh,Thanh là các thành tựu văn học rực rỡ.
Nhà văn Lỗ Tấn đóng vai trò mở đầu nền văn học hiện đại. Sau đó văn học hiện
đại của cách mạng vô sản diễn ra khá phức tạp, chỉ có được thành tựu đáng kể nhất từ
giai đoạn Đổi Mới trong hai thập kỷ cuối thế kỉ 20.
NỘI DUNG
I. NHỮNG THÀNH TỰU TIÊU BIỂU CỦA VĂN HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐIỂN:
1.Văn học thời cổ đại :
Trung Quốc có một nền văn học phong phú đặc sắc vào bậc nhất trên thế giới.
Văn học dân gian Trung Hoa thời cổ đại chắc chắn rất phong phú nhưng chỉ số ít
còn giữ được đến ngày nay, trong số đó có một số ghi trong sách cổ hay các đồ vật cổ.
1.1. Thần thoại, truyền thuyết:
Thần thoại và truyền thuyết được ghi trong sách cổ cũng là văn học truyền miệng
trong thời kì xã hội thị tộc. Nội dung được ghi chép thường đơn giản. Sau này, đọc các
bản phóng tác của nhà văn hiện đại thì câu chuyện phong phú kỳ thú hơn. Ví dụ các
truyện Nữ Oa vá trời, Hậu Nghệ bắn mặt trời, Hằng Nga lộng nguyệt, Tinh Vệ lấp biển,
Ngưu lang Chức nữ, vua Vũ trị thủy .v.v… Thần thoại Trung quốc tìm cách giải thích
các hiện tượng tự nhiên, như mặt trời, mặt trăng mây gió đến cây cỏ, chim muông. Ðặc

biệt những truyện nói về nguồn gốc trái đất và muôn loài đã được hư cấu thật tài tình.
Gạt bỏ những chi tiết hoang đường, chúng ta hiểu được gần đúng tình cảnh người thời
nguyên thuỷ, ăn hang ở lỗ, dần dần tìm ra lửa, biết đánh cá, săn muông thú, trồng trọt và
chăn nuôi. Thần thoại tin rằng các vị thần có công lao hướng dẫn con người làm được
những thành công vĩ đại ấy.
Nội dung truyền thuyết thì gần gũi với con người hơn. Những nhân vật như vua
Hoàng Ðế, vua Nghiêu, vua Thuấn và vua Vũ được coi là nhân vật lịch sử có thật, được
thêu dệt tô điểm thành huyền thoại. Ðó là những vị anh hùng không hề chịu bó tay trước
thiên nhiên hung dữ, khắc nghiệt luôn luôn gây tai hoạ cho người. Họ có sức mạnh ghê
gớm để khắc phục khó khăn gian khổ hay tranh đấu đến chết đối với các lực lượng tự
nhiên tàn bạo.
Thần thoại và truyền thuyết Trung quốc phản ánh những niềm khát vọng của
người lao động thời đó. Họ muốn giảm nhẹ công việc nặng nhọc, tăng năng suất, sống
thoải mái trong tình thương yêu đồng loại.
Thần thoại truyền thuyết có ảnh hưởng rất lớn đến văn học đời sau. Khuất
Nguyên nhà thơ thời Chiến quốc đã dùng hình ảnh thần thoại cho thơ. Các nhà thơ thời
Đường như Lý Bạch hay dùng thần thoại, truyền thuyết để trang bị cho thơ của mình
một không khí lãng mạn, phóng khoáng, Lý Thương Ẩn, Ðỗ Mục cũng thường nhắc
đến Hằng Nga, Chức Nữ tượng trưng cho người đẹp xa vời. Còn trong tiểu thuyết cổ
điển như Tây Du ký, Phong thần diễn nghĩa, Liêu Trai chí dị, tác giả cũng sử dụng bút
pháp thần thoại truyền thuyết.
Thần thoại được coi là “cuốn lịch sử” đầu tiên của lịch sử Trung Hoa. Ðến nhà
Chu mới chính thức có lịch sử ghi chép và nền văn học viết.
Thần thoại Trung quốc gồm nhiều truyện vụn vặt, lẻ tẻ (Ấn Ðộ và Hi lạp, sau giai
đoạn thần thoại, phát sinh thể loại sử thi anh hùng ca kết nối các thần thoại và phát triển
tiếp, do đó thần thoại Ấn Ðộ và Hi Lạp được truyền lại đời sau trong một hình thức đầy
đủ và hoàng tráng hơn). Tuy vậy, thần thoại Trung Quốc cũng gây ảnh hưởng lâu dài đến
nền văn học Trung Hoa suốt hàng ngàn năm sau. Thần thoại đã biến thành điển cố, điển
tích và gây nguồn cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ đời sau.
1.2. Kinh Thi:

Tiêu biểu nhất trong kho tàng thơ ca cổ đại là tập Kinh Thi gồm khoảng 300 bài
thơ có vị trí đặc biệt trong nền văn học và giáo dục Trung Quốc.
Kinh Thi là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc, sáng tác trong khoảng thời gian hơn
năm trăm năm, cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm. Đến thế kỷ 6 trước CN sưu tầm
khoảng ba trăm bài, được soạn thành tập. Về sau Khổng Tử biên soạn thành sách gọi là
Kinh Thi dùng làm sách giáo khoa (trong bộ Ngũ kinh). Ông coi trọng việc học thơ nhằm
xây dựng tình cảm đạo đức và tạo cho lời nói thêm hoa mỹ. Ông nói: "Không học Kinh
Thi thì không biết nó" (Luận Ngữ). Thơ có thể làm cho mọi người phấn chấn, đoàn kết
với nhau, bộc lộ lòng bất mãn, phẫn uất của mình và tham khảo phong tục đất nước. Theo
truyền thuyết, lúc đầu Kinh Thi có tới 3000 bài, sau rơi rụng dần chỉ còn hơn 300 bài.
Kinh Thi gồm ba phần: Phong, Nhã, Tụng.
Phong: còn gọi là quốc phong, có 160 bài. Đó là ca dao, dân ca của 15 nước nhỏ.
Đó là tác phẩm của miền Bắc gồm lưu vực sông Hoàng Hà, Trường Giang, trung tâm văn
hóa của Trung Quốc thời bấy giờ.
Nhã: Gồm tiểu nhã và đại nhã (còn gọi nhị nhã), có 105 bài.
Tiểu nhã: Những bài dùng trong trường hợp các buổi yến tiệc quý tộc (74 thiên).
Đó là thơ ca của giới quý tộc đại phu làm trong những dịp triều hội, yến tiệc nói về quan
hệ tốt đẹp giữa vua và các nghi thức tiếp tân giữa chủ và khách Đại nhã: những bài
dùng trong trường hợp quan trọng như khi Thiên tử họp các vua chư hầu hay tế ở miếu
đường (31 thiên).
Tụng: Là những bài tán tụng, ca ngợi dùng lúc tế lễ thần linh, thái miếu, hơn 100
bài, giống như văn tế sau này. Tụng gồm có Chu tụng, Lỗ tụng và Thương tụng (gọi là
tam tụng) sáng tác ở ba nước Chu, Lỗ và Thương.
Nghiên cứu Kinh Thi, người đọc hiểu được phong tục tập quán, tình hình xã hội
và khuynh hướng tư tưởng của từng vùng và từng giai tầng xã hội. Đại bộ phận quốc
phong và một phần Tiểu nhã, một phần Đại nhã có tính nhân dân và tính phê phán cao là
sáng tác của người bình dân lao động. Còn Tụng và phần còn lại của Nhị nhã là sáng tác
của giới quý tộc nhằm ca tụng giai cấp thống trị. Có ý nghĩa nhất đối với chúng ta ngày
nay là "quốc phong" và một số bài trong Tiểu nhã. Đó thực sự là văn học dân gian chân
chính của Trung Quốc cổ đại.

Các bài ca dao, dân ca trong quốc phong là sáng tác của nhân dân lao động, ca hát
về công ăn việc làm của họ, tâm tình, cảm xúc của người cùng kiệt khổ bị áp bức bóc lột. Họ
phải làm lụng cực nhọc để nuôi bọn lãnh chúa sống giàu sang, nhàn hạ. Ví dụ bài " Thất
Nguyệt " như sau: Tháng giêng sửa soạn cày bừa, tháng hai ra đồng cày ruộng, tháng ba
trồng dâu nuôi tằm, tháng tư, tháng năm đi hái trái viễn chín làm thuốc, tháng sáu hái lê
và mận,tháng bảy nấu quỳ đậu hái dưa, tháng tám hái bầu, chặt lau sậy, gặt hái, dệt vải,
tháng chín hái mè, đàn bà may quần áo lạnh cho nhà chủ, đàn ông đập lúa, tháng mười
nạp tô, tháng mười một đi săn chồn, tháng mười hai săn thú lớn, đục băng cất đi cho chủ
ăn mùa hè cho mát.
Bài thơ còn tả những cách thức bóc lột của bọn lãnh chúa. Thỉnh thoảng chen
những tiếng thở dài, giọng thơ thường kết thúc mỉa mai, cay đắng, oán trách.
Đề tài chiến tranh trong Kinh Thi cũng khá phong phú. Phản ánh nỗi khổ cực do
chiến tranh thời Xuân Thu gây ra cho người lao động. Họ phải bỏ làng xóm, việc cày cấy
và gia đình để đi tham gia các cuộc viễn chinh. Những nỗi buồn khổ của chinh phu, chinh
phụ thể hiện trong các bài Đông Sơn, Thái vi.
Cũng giống như ca dao dân ca nước Việt, Kinh Thi gồm rất nhiều bài ca tình yêu.
Lời lẽ hồn nhiên thẳng thắn chất phác, mạnh dạn và tình cảm chân thành. Mở đầu Kinh
Thi là bài " Quan thư" bài thơ tình yêu, bộc lộ những nỗi vui buồn thương nhớ, ước mong
và yêu đương Tình yêu của người bình dân hồi ấy thật trong sáng, ngây thơ. Mùa xuân
trai gái vui chơi trên bờ sông hái cỏ thơm tặng nhau, tỏ tình. Con gái tỏ tình bằng cách
mời anh nhảy múa. Những cuộc hò hẹn, cô gái đến trước, nấp một nơi để chứng kiến nỗi
bứt rứt đau khổ của người yêu. Thơ tình yêu cũng đã lên tiếng oán trách hay phản đối
luân lý, lễ giáo, luật lệ khắc nghiệt thời cổ đại. Từ khi yêu đương đến cuộc hôn nhân và
đời sống gia đình, người phụ nữ thường bị hạn chế, chịu thiệt thòi suốt đời. Họ viết
những vần thơ cảm động, ai oán.
Kinh thi được coi là sách kinh điển của học đường và nhà nho nên chủ đề tình yêu
của người lao động bình dân ít được chú ý. Những bài ca tình yêu do giới quí tộc cung
đình soạn ra trong Đại Nhã được ca tụng nhiều hơn.
*Nghệ thuật kinh thi
Có 5 biện pháp dùng trong Kinh Thi

Phú: là phô bày , là nói thẳng sự việc ra, nghĩ thế nào thì nói thế ấy.
Tỷ: là so sánh, ví von, chẳng hạn "nhánh cỏ non" ví với bàn đẹp, "ngọc" ví với
người hiền tài .v.v "Tỷ"cùng gần giống với biện pháp tượng trưng. Như bài thơ Thạc
thử (đánh chuột) kẻ chuyện bọn chuột tham lam tàn nhẫn cần diệt chúng nhưng ta
hiểu rằng chuột là bọn lãnh chúa, quan lại tham nhũng.
Hứng: nói sự việc này để dẫn đến sự việc khác mình muốn nói. Ví dụ tả cảnh
"chim gù nhau" để nói chuyện trai gái tìm lứa đôi, nói "quả mơ rụng' đẻ chỉ việc năm
tháng trôi qua, tuổi xuân sắp hết, nói " thuyền trôi nổi giữa dòng sông" để dẫn đến chuyện
mối tình dang dở. Đến ngày nay ba cách ấy đã thông dụng trong ngôn ngữ văn chương.
Kinh Thi là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc đã sử dụng thành thạo nên ta phải kể đó là
đặc sắc nghệ thuật của giai đoạn này. Người làm thơ quả là có cái nhìn mới mẻ, óc tưởng
tượng dồi dào, sự liên tưởng đột ngột rất nên thơ. Có khi cả ba biện pháp tu từ đó được
dùng xen kẽ trong một bài. Như bài Quan Thư gồm năm đoạn. Đoạn 1 có thể hứng và tỷ,
đoạn 2 theo thể hứng, đoạn 3 theo lối phú, đoạn 4 và 5 lại theo thể hứng. Kết cấu xướng
họa, thường dùng trong các bài ca lao động tươi vui đối đáp của các cô gái hái dâu.
Kết cấu trùng điệp trong Kinh Thi thường theo cách " trùng chương, điệp cú" (lặp
đoạn, lặp câu, lặp hình ảnh, lặp từ ngữ, âm điệu ). Trùng điệp làm tăng cường độ diễn
đạt. Nhạc điệu rất giàu có trong Kinh Thi. Có bài là dân ca, có bài là thơ được phổ nhạc.
Ngày nay, phần âm nhạc đã mất đi, chỉ còn lời với tiết tấu vần điệu của ngôn ngữ nghe
vẫn êm tai, dễ nghe. Lời trong bài được chọn lọc, tinh xảo. Khi sưu tầm, lời thơ có thể
được nhuận sắc (gọt sửa) cho hay hơn, dễ nhớ hơn. Do đó, về sau trong ngôn ngữ giao
tiếp người ta hay chêm một câu Kinh Thi như là một dạng tục ngữ, thành ngữ; Trong
sáng tác văn học, người ta sử dụng Kinh Thi như là điển tích điển cổ.
Kinh Thi xưa nay được xem là một tác phẩm văn học cổ điển vĩ đại có ảnh hưởng
rất lớn đối với nền văn học Trung Quốc. Kinh Thi còn có giá trị hiện thực cao, được coi
là tác phẩm mở đầu cho văn học hiện thực Trung Quốc.
1.3. Khuất Nguyên và Sở từ:
Khuất Nguyên là nhà thơ được nhân dân Trung Quốc kính trọng nhất và yêu thích
nhất trong hàng nghìn năm nay. Ông sống vào thời kỳ Chiến Quốc (từ năm 475 đến năm
221 trước công nguyên ). Cái gọi là “Chiến Quốc” là vì đây là một thời đại các nước chư

hầu san sát, hỗn chiến không ngừng. Trong đó nước Tần và nước Sở là hai nước có thực
lực lớn mạnh nhất lúc đó. Mười mấy nước nhỏ khác đều dựa vào hai nước này.
Khuất Nguyên là quý tộc nước Sở, và đảm nhiệm chức quan cấp cao. Ông có học
thức uyên bác, giỏi về ngoại giao, ban đầu, ông được nhà vua nước Sở ưa thích và tin
tưởng. Trong thời đại đó, nhà vua và quyền quý các nước đều tranh nhau thu hút nhân tài
phục vụ cho mình, cho nên họ tiếp đãi nhân tài một cách lễ phép. Lúc đó, nhiều người có
học thức nổi tiếng đều du thuyết ở các nước, nỗ lực hết sức nhằm thực hiện lý tưởng
chính trị của mình. Nhưng Khuất Nguyên không như vậy, ông rất quyến luyến tổ quốc,
mong phụ tá nhà vua nước Sở bằng tài hoa của mình, khiến nước Sở chính trị dân chủ,
thực lực nhà nước mạnh mẽ. Với lý tưởng như trên, Khuất Nguyên cho đến chết cũng
không muốn rời khỏi tổ quốc. Điều đáng tiếc là, vì Khuất Nguyên có mâu thuẫn gay gắt
với tập đoàn quý tộc hủ bại nước Sở về mặt nội chính và ngoại giao, hơn nữa lại bị người
khác vu cáo hãm hại, Khuất Nguyên bị nhà vua nước Sở xa lánh, sau đó, địa vị nước lớn
và thực lực nhà nước mạnh mẽ của nước Sở dần dần suy sụp. Năm 278 trước công
nguyên, quân đội nước Tần đánh phá Dĩnh Đô, thủ đô nước Sở. Nước tan nhà tan, Khuất
Nguyên không chịu nổi nỗi căm phẫn, nhảy xuống sông tự tử.
Nói đến Khuất Nguyên, người ta nhớ đến ngay thể Từ (hay còn gọi là Sở Từ), và
nhắc đến thể Từ, người ta không thể không nghĩ ngay đến tác phẩm Ly Tao nổi tiếng của
ông. Có thể nói, trong lịch sử văn học Trung Quốc, tên tuổi và địa vị của Khuất Nguyên
là không thể thay thế, làm rạng rỡ cả một nền văn học. Thể Từ cũng được coi là cơ sở của
Hán Phú sau này, là bước đột phá trong lịch sử văn học Trung Quốc khi phá vỡ quy luật
thông thường của tác phẩm trong tuyển tập Kinh Thi. Thể Từ, hay còn gọi là Sở Từ, cùng
với những giá trị mỹ học, giá trị lịch sử gắn liền với văn hóa, chính trị của nước Sở thời
Chiến Quốc và nhất là tấm gương bất khuất kiên cường của Khuất Nguyên đã để lại dấu
ấn vô cùng riêng biệt.
"Sở từ" là một thể thơ mới sau Kinh Thi, nó xuất hiện vào thời Tây Hán. Người
thời Hán thường gọi "Sở từ" là " phú", kì thực bất luận là thể thức hay từ tính chất mà
nói, cả hai đều không giống nhau.
Sở từ là sản vật của văn hóa Sở, sự sản sinh Sở từ, đầu tiên nó có mối quan hệ trực
tiếp với Sở thanh, Sở ca, thứ đến, nó có quan hệ với "vu ca" của dân gian nước Sở. Cửu

ca mà Khuất Nguyên sáng tác là trên cơ sở nhạc ca tế thần dân gian có sự gia công mà
thành. Thêm vào đó, trong Sở từ đã miêu tả nhiều phong tục sản vật của đất Sở, sử dụng
nhiều phương ngôn đất Sở.
Ngoài ra, sự hỗ trợ tương thâm nhập của văn hóa Nam Bắc, văn hóa và chế độ tiên
tiến của trung nguyên cũng đã dần được văn hóa Sở tiếp nhận. Phong khí tường thuật hoa
lệ của các Tung hoành gia thời Chiến quốc cũng có ảnh hưởng không nhỏ đối với Sở từ.
Từ thể thức mà nói, trên thực tế Sở từ có 2 loại:
-Một loại giống Thi kinh nhưng có sự cải tạo, như Quất tụng, Thiên vấn, cơ bản là
thể " tứ ngôn".
-Một lọa khác là "tao thể" láy Li tao, Cửu ca làm đại biểu, đây là dạng thức điển
hình của Sở từ.
Thể Sơ từ điển hình nhìn từ thi phong có sự phô bày khoa trương, sự tưởng tượng
phog phú. tác phẩm của Khuất Nguyên tràn đầy sự tưởng tượng kì ảo, bộc lộ lớp lớp tình
cảm chân thành (như Li tao), miêu tả phô trương sự vật (như Chiêu hồn). Còn tác phẩm
của Tống Ngọc đã tiến thêm một bước về phương diện tự sự miêu tả. Từ ngôn ngữ mà
nói, Sở từ đa phần dùng Sở ngữ, Sở thanh; từ ngữ phương ngôn đất Sở xuất hiện với số
lượng lớn.
*Tác phẩm tiêu biểu của Khuất Nguyên cũng như thành tựu lớn lao nhất của Sở Từ: Li
Tao.
“Li tao” là bài thơ dài nhất của Khuất Nguyên, gồm 373 câu và là tác phẩm tiêu biểu
nhất, trong đó ông trình bày lý tưởng ông theo đuổi, thổ lộ nỗi phẫn uất trước hiện thực
đen tối của xã hội, nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất, bộc lộ lòng yêu nước, thương
dân nồng nàn của mình và ý chí thà chết chứ không chịu sống hèn, sống đục.
Nhà sử học Tư Mã Thiên đời Hán giải thích “Li tao là li ưu, tao là lo, lo buồn
trong chia li”… Một nhà viết sử đời Hán khác, Ban Cố, lại giải thích “Li là gặp phải, tao
là lo âu. Nhà thơ gặp phải điều lo âu mà viết ra những vần thơ này”. Hai cách giải thích
khác nhau nhưng thống nhất rằng nhà thơ đã bày tỏ nguyên nhân khiến cho mình lo âu
bằng những lời đau buồn, ai oán sâu sắc trong những ngày phải sống kiếp lưu đày ở
phương xa.(Đào Duy Anh theo Quách Mạt Nhược giải thích: “tao” là tên thể thơ]
“Li tao” là một bài thơ trữ tình thương cảm, lâm li. Ðó là bài thơ của nhà chính

trị nhưng chất thơ rất đậm, Kết hợp trữ tình và tự sự, kết hợp tính lãng mạn và tính hiện
thực. Thủ pháp nghệ thuật chính là nói bằng hình tượng, ông thường dùng lối ẩn dụ,
tượng trưng. Ông tả các thứ hoa thơm cỏ lạ ở nơi núi cao, vực thẳm để tượng trưng cho
những phẩm chất tốt đẹp. Khi ông nói việc đeo hoa vào người làm đồ trang sức là nói
tự mình trau dồi trong sạch, thanh cao. Ông còn dùng thần thoại truyền thuyết để tả cảnh
núi non, sông nước, mây gió trăng sao làm cho ý thơ càng thêm bao la bát ngát. “Li
tao” viết theo thể từ thuộc dân ca nước Sở, dùng ngôn ngữ nước Sở, đó là tính chất dân
tộc đậm đà của thơ ông
Với di sản văn học để lại cho hậu thế, Khuất Nguyên được khẳng định là nhà thơ
vĩ đại đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Những bài thơ tràn đầy tình cảm nồng nhiệt của
ông " Tao thế" mà ông sáng tạo đã làm cho sức biểu hiện thơ ca cực kì phong phú. Thủ
pháp lãng mạn mà ông sử dụng trong Li Tao đã ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành và
phát triển của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học cổ điển Trung Hoa. Li Tao đã trở thành
biểu tượng của thơ ca Trung Hoa.
1.4. Sử kí và Tư Mã Thiên:
Tư Mã Thiên (145 – 90 TCN) là nhà viết sử cũng là một nhà văn . Bộ Sử Ký của
ông là một bộ thông sử lớn và một tác phẩm văn xuôi nổi tiếng. Cuộc đời và sáng tác của
ông là tấm gương lớn cho hậu thế .
Việc viết sử ở Trung Quốc có từ rất sớm, thời nhà Chu đã có sử quan. Tác
phẩmThượng thư, Xuân thu,Tả truyện, Quốc ngữ, Chiến quốc sách chưa trình bày lịch sử
Trung Quốc một cách hoàn chỉnh, hay chỉ chép một số sự việc cá biệt hay một số khu
vực và giai đoạn.
Bộ Sử ký của Tư Mã Thiên đã tổng kết ba ngàn năm lịch sử Trung Quốc từ Hoàng Ðế
truyền thuyết cho đến thời hiện tại Hán Vũ đế. Bộ sách miêu tả đời sống xã hội rộng rãi
kinh tế chính trị văn hóa, các tầng lớp giai cấp từ công hầu khanh tướng học giả thầy bói,
thích khách, hiệp sĩ giang hồ, con hát. . .
Sách gồm 130 thiên (như chương, hồi) chia làm 5 loại :
+ Bản kỷ : 12 thiên tả các đời vua từ Ngũ đế, Hạ,Thương, Chu, Tần, Sở đến Hán
+ Biểu (niên biểu) : 10 thiên chép mối quan hệ giữa các bá vương và chư hầu qua các sự
kiện lớn.

+ Thư: 8 thiên chép 8 mặt kinh tế, văn hóa chủ yếu.
+ Thế gia: 30 thiên chép về những nhân vật quí tộc lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ quyết
định sự phát triển và diệt vong của các chư hầu.
+ Liệt truyện : 70 thiên chép chuyện các nhân vật đặc biệt, nổi tiếng. Về sau thất lạc mất
10 thiên.
Sử ký – một bộ truyện ký nhân vật lịch sử
Một bộ truyện giàu tính nhân dân, tính hiện thực, nghệ thuật xây dựng nhân vật
điển hình sinh động sâu sắc, hấp dẫn cho tới nghìn năm sau .
Miêu tả nhân vật thuộc giai cấp thống trị: điển hình là Tần Thủy Hoàng hoàng đế
độc tài chuyên chế vô cùng tàn bạo. Tịch thu hết vũ khí trong thiên hạ đem về đúc
chuông khánh, tượng nặng cả ngàn cân trang trí cho cung điện. Bao nhiêu sách Thi Thư
gom về các quận đốt. Hơn 600 học giả bị chôn sống ở Hàm Dương. Vơ vét tài sản của
dân, bắt hàng vạn người xây cung A Phòng, đào núi Lí Sơn làm nơi tắm mát và lấy đá
xây lăng tẩm , bắt đưa hàng chục vạn người dân sang sống ở Việt Nam để đồng hóa dân
tộc. Xây Vạn Lý trường thành hao tổn biết bao mạng người và của cải tiền bạc … Y còn
là tên vua hưởng lạc khó ai bì kịp, trong cung chứa hơn mười ngàn cung nữ. Sợ chết, y
sai tìm chế thuốc trường sinh bất tử hại người hại của . . .Mọi việc điều hành y tự mình
quyết định, dùng giết người để thị uy. Là một tay giỏi võ nghệ, can trường khác người.
Trong một chuyến đi ra khỏi cung, y chết khi đến tỉnh Hà Bắc, sống được năm chục
tuổi .
Khi viết về Lã Hậu tàn bạo xảo quyệt – vợ của vua Hán Cao tổ (ông nội đương kim
hoàng đế thời Tư Mã Thiên) mà ông cũng chẳng dè dặt khi hạ bút. Nhà học giả Vương
Sung (27-98) đời Ðông Hán kể lại :”Hán Vũ đế nghe nói Tư Mã Thiên chép sử , sai lấy
hai thiên phần ghi về Hiếu Cảnh và Hiếu Võ (cha và anh của vua) xem xong nổi giận xé
vứt đi, do thế mà tài liệu đó thất truyền” .
Viết về bọn quan tướng, Tư Mã Thiên lại càng lên án thẳng thắn, như viết về
tướng Bạch Khởi nhà Tần giết cả 90 vạn lính ba nước Triệu Hàn Ngụy đến bước đường
cùng phải cúi đầu nhận tội. Những tên văn quan cai trị khác cũng tàn bạo tham lam, coi
pháp luật như trò chơi, chỉ biết theo ý vua hay ý riêng mình .
Nhìn chung giai cấp thống trị được tả như những kẻ xáo trá tàn ác xu nịnh đàn áp

bóc lột dân là chuyện thường tình .
Miêu tả thật hay về các nhân vật chính diện, như anh hùng Trần Thiệp, Ngô Quảng
chống lại nhà Tần hung ác. Ông so sánh Trần – Ngô với việc vua Thành Thang phạt
Kiệt, Vũ Vương phạt Trụ thời xưa. Sau Tư Mã Thiên, một nhà sử học Hán là Ban Cố tác
giả Hán Thư tìm cách hạ thấp hai vị lãnh tụ đó từ phần “thế gia” chuyển sang “liệt
truyệt” và gọi hai ông là giặc cỏ, phản tặc ?). Quan thái sử nhà Tấn là Ðổng Hồ kiên
quyết ghi Triệu Thuẫn giết vua (chủ trì chịu trách nhiệm !) mặc dù cháu ông là Triệu
Xuyên ra tay, nhân vật Trình Anh và Công Tôn Trừ Cữu trung thành hy sinh thân mình và
con mình để giữ dòng máu họ Triệu .
Nhân vật du hiệp, thích khách và những quan nhỏ chốn triều chính mà có nghĩa khí,
cứng rắn đều được ca ngợi trong Sử ký. Họ là những người trọng nghĩa khinh tài ,
trọng công bằng ghét áp bức , thậm chí chế giễu cả thói xấu vua chúa . Người đồ tể giết
lợn múa dao mà cũng dám giúp công tử Vô Kỵ nước Ngụy chống Tần (Vô Kỵ được
phong Tín Lăng quân) . . . và rất nhiều vị đại hiệp khác được tả trong Liệt truyện (Du
hiệp/Thích khách / Hoạt kê liệt truyện ). . .


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
K Phân tích nhận thức về các phương tiện tiến công đường không và tác động của các thành tựu khoa học Khoa học Tự nhiên 2
B Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và nội dung đường lối đổi mới của Đảng - Những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới 1986-1991 Khoa học Tự nhiên 6
B Quá trình hình thành và phát triển của Viện khoa học Lao động và Xã hội và những thành tựu qua 25 nă Luận văn Kinh tế 0
T Những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc Lịch sử Thế giới 0
G Thực trạng kinh tế Việt Nam và thành tựu của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN Tài liệu chưa phân loại 0
T Thành tựu và hạn chế của nông nghiệp Việt Nam trong đổi mới Tài liệu chưa phân loại 2
C Tiểu luận: Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước MÁc Văn hóa, Xã hội 0
S Những thành tựu chủ yếu của văn minh Ai Cập cổ đại Tài liệu chưa phân loại 2
V Tiểu luận: Chất lượng GD Đại học của Việt Nam hiện nay: Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân Luận văn Sư phạm 1
C Đề án: Chất lượng GD Đại học của Việt Nam hiện nay: Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân Luận văn Sư phạm 3

Các chủ đề có liên quan khác

Top