Taima

New Member

Download miễn phí Vị thế của triết học trong đối thoại và nhận thức luận của tính thụ nhận





Áp lực ngày càng gia tăng đối với trường học là phải giáo dưỡng học sinh
để họ có thể thành đạt trong những cộng đồng đa dạng về ngôn ngữ, sắc
tộc, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, giới tính. Chương trình giảng dạy mới phải
phản ánh được bản chất đa dạng mang tính nhân khẩu học; giáo viên phải ý
thức và phản ánh được tính đa dạng trong giáo áncũng như ở việc quản lý
lớp; học sinh thì phải có cơ hội để tiếp xúc với những nền văn hóa khác
nhau trong và ngoài nhà trường. Hiện nay, giáo viên đã giúp học sinh nhận
ra những bản sắc đa dạng thông qua những tự truyện cá nhân, những hình
ảnh và tích truyện có trong văn hóa đại chúng, đặc biệt là thông qua phim
ảnh, âm nhạc và internet. Giáo viên khuyến khích học sinh lắng nghe và
chia sẻ với nhau những trải nghiệm trong cuộc sống của họ, nhấn mạnh
rằng họ cần có một tư duy khai mở, bao dung và không nênđịnh kiến với
người khác. Các cuộc đối thoại cần dựa trên tinh thần hợp tác, chú trọng
tính bao dung, thụ nhận và cởi mở nhằm cùng chia sẻ các kinh nghiệm, tự
sự và quan điểm khác nhau.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

hủng tộc và tôn giáo. Quan niệm thứ hai chỉ ra
rằng, những cá nhân tồn tại (hiện hữu) một cách liên thông (như những
hiện thể thông giao với nhau). Martin Buber, Emmanuel Levinas và Nel
Noddings cho rằng, những cá nhân nên thông mở với người khác như
người khác mình, như kháng thể cố hữu đối với sự thông hiểu và tồn tại
trong mối tương quan của tính có thể xâm nhập lẫn nhau về mặt bản thể
luận với ta. Như vậy, khoan dung bao gồm việc tạo dựng không gian cho
người khác (xuất hiện) cũng như giảm thiểu ý muốn quy kết, đánh giá
người khác theo một quan điểm thông diễn được mặc định.
Chính chủ thể tính, theo hai quan điểm nêu trên, góp phần tạo ra sự tha hóa
(vong thân) của con người. Những điều kiện cho sự tồn tại mang tính vật
chất của con người và ý nghĩa được mã hóa của chúng đã tạo ra những
quan điểm. Chính quan điểm của chúng ta đã thiết lập (xác định) tính riêng
biệt (phân tính) của chúng ta: nó quy định (định đoạt) và cung cấp cho ta
những cách kiến giải và phán xét người khác, khiến chúng ta gặp nhiều trở
ngại hơn trong việc đánh giá tính tương thông liên văn hóa và liên cá nhân.
Vì thế, cả hai quan điểm đều khuyên người ta nên tìm kiếm tính kết nối
(tương thông) thông qua quá trình chia sẻ với nhau những truyện tích văn
học và tự truyện, bởi những chiến lược giáo dục hướng đến nâng cao tính
thụ nhận. Những truyện tích đem lại sự hiểu biết văn hóa bằng cách phá vỡ
những khuôn mẫu mặc định và khuyến khích người đọc, người nghe thấu
cảm với nhân vật. Những chiến lược giáo dục này hướng tới một phương
thức của sự tham gia (thể nhập trực tiếp) trái ngược với những quy định
nghiêm ngặt của triết học. Đó là sự định hướng có tính cá nhân, cảm tính
và mang tính chất khám phá; trong khi triết học lại phi cá nhân, là lý thuyết
trừu tượng và áp đặt lý tính.
Những khóa học triết học cơ bản là yếu tố chính trong giáo dục giáo viên.
Những khóa học như vậy giới thiệu cho học sinh những kiệt tác của các
nhà triết học giáo dục kinh điển và đương thời. Tuy nhiên, trong giai đoạn
nửa cuối thế kỷ XX, việc quan tâm đến tư duy mang tính phê phán đã dẫn
dắt việc dạy và học theo định hướng đó. Nhận thức mang tính phê phán
giới thiệu một hệ thống trung tính các thao tác lôgíc và mặc định lý tính,
bao gồm: dự liệu và đánh giá lập luận, xem xét những lựa chọn khác nhau,
lập luận mang tính giả thuyết, nhận dạng lập luận sai lầm và chuẩn bị cho
sự tự hiệu chỉnh. Giả định về tính trung tính này đã nhận được sự phản bác
từ phía thuyết nữ quyền, luận thuyết phê phán, nghiên cứu văn hóa, sư
phạm phê phán, luận thuyết đồng tính luyến ái, luận thuyết chủng tộc và
chủ nghĩa đa văn hóa. Những cách tiếp cận mang tính chính trị này vạch ra
rằng, tính hợp lý để khẳng định chủ quyền của triết học (và biện hộ cho tư
duy phê phán) không mang tính phổ quát lẫn điển phạm, mà chỉ là biểu
hiện của một lập trường chủ quan. Khi bị bãi tín như một khoa học, triết
học - lôgíc, nhận thức luận và đặc biệt là siêu hình học - đã bị phỉ báng vì
dám phổ quát hóa những giá trị ngẫu nhiên và bịt miệng các lập trường chủ
quan khác.
Giáo dục bị chính trị hóa bởi một kiến giải mới – “mang tính triết học”
theo lập luận của một số người – mà theo đó, bất kỳ sự khẳng định nào đối
với một giá trị đều hàm nghĩa việc hạ thấp giá trị của những gì đối lập với
nó. Tôn vinh thiện tính hay lý tính thành những đặc trưng cơ bản của con
người cũng đồng nghĩa với việc hạ thấp giá trị của những phẩm chất khác
của con người, như cảm xúc, trực giác, thể xác và bản tính. Điều đó thích
hợp để đưa ra những câu hỏi thuần túy hậu hiện đại: “Giá trị là của ai?”(5).
Với sự chú tâm đến tính công bằng và phản bác tính cực quyền (bá quyền),
các chương trình giáo dục đã bắt đầu thay thế các khóa học mang tính phê
phán bằng các khóa học về tính đa dạng, về chủ nghĩa đa văn hóa, về công
bằng xã hội và những phương pháp nâng cao nhận thức khác. Điều này đã
tạo ảnh hưởng tích cực cho các bộ môn tiếng Anh, các lý thuyết xã hội, xã
hội học, lịch sử và khoa học chính trị. Trong khi đó, triết học lại chịu nhiều
tác động xấu được tạo ra bởi nhận thức coi nó là một trong những tiền đồn
cuối cùng của thời kỳ Khai sáng.
Người ta cho rằng, triết học đã khẳng định lý tính định đoạt nhân tính của
chúng ta; vì vậy, nó là tồn tại phổ quát và được thiết lập một cách đồng
nhất ở mọi cá nhân. Lý tính hàm chỉ sự tồn tại của một chủ thể thống nhất,
có năng lực tìm hiểu và nhận thức cùng với khả năng tự quyết độc lập.
Chính năng lực lý tính của chúng ta, với tư cách bản chất cơ bản của con
người, đã thúc đẩy con người phải biết tôn trọng người khác. Bởi con
người là những sinh vật cùng chung bản chất nên sự đồng cảm và tôn trọng
là những ứng đáp tự nhiên của con người, trở thành những thành tố quan
trọng trong mỗi cá nhân để giúp họ vượt qua những cảm nhận lầm lạc về
văn hóa, tôn giáo, sắc tộc và sự phân biệt giới tính. Điều này cho thấy, triết
học nhấn mạnh đến sự thống nhất, tính nhất quán và tương giao chứ không
phải là sự khác biệt, đa dạng và mới lạ.
Thật mỉa mai rằng các cộng đồng giáo dục cần ghi nhớ quan điểm này về
triết học trong văn cảnh của ba sự phát triển quan trọng gần đây của triết
học hàn lâm. Thứ nhất, Pierre Hadot, Alexander Nehamas và một số học
giả khác nhắc nhở các nhà triết học rằng, môn học mà họ đang theo đuổi
được khởi nguồn từ một truyền thống thông thái và cũng là một bộ phận
cấu thành truyền thống thông thái đó. Sự tìm tòi với tư cách một sự nghiên
cứu mang tính triết học nhằm lý giải con người cần làm thế nào và cần
những cái gì để có thể sống tốt đẹp đã bắt đầu. Thứ hai, noi theo Triết học
và sự phản ánh của tự nhiên của Richard Rorty, nhiều nhà triết học đã phê
phán việc quan tâm quá mức của triết học tới nhận thức luận và coi đó như
là khoa học nền tảng. Họ yêu cầu cần có nhiều hơn nữa những quan
niệm mang tính đối thoại trong triết học mà mục đích không phải để tìm
kiếm Chân lý (duy nhất) - được hiểu như là sự mô phỏng của hiện thực tồn
tại độc lập ngoài ý thức - mà là tìm kiếm những sự thật khác vừa khác biệt
với những cái có trước đó, vừa có khả năng biến đổi. Rorty gọi công việc
này là thông diễn học hay triết học khai trí. Thứ ba, từ những năm 70 của
thế kỷ XX, một loạt những bộ môn liên kết không mang tính triết học hàn
lâm khác nhau đã xuất hiện, như triết học ứng dụng, thực hành triết học, tư
vấn triết học, quán café thảo luận triết học và triết học cho trẻ em. Điều này
đóng góp vào sự phục hưng của triết học như một hoạt động lôi cuốn các
cá nhân cùng tham gia tìm kiếm sự minh triết. Xu hướng này tạo ra ảnh
hưởng trực tiếp giúp triết học tái hòa nhập vào đời sống hiện
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
M Vị thế và ảnh hưởng của triết học Đêcáctơ trong lịch sử triết học Tài liệu chưa phân loại 0
D Nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành sức khỏe sinh sản vị thành niên của học sinh trung học phổ thông Y dược 0
D Kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe sinh sản vị thành niên và một số yếu tố liên quan của học sinh trường trung học phổ thông Y dược 0
D Ảnh hưởng của vị trí địa lí của Singapore đối với phát triển kinh tế xã hội Văn hóa, Xã hội 0
D Nghiên Cứu Khả Năng Sinh Trưởng, Phát Triển Của Một Số Dòng Giống Đậu Tương Tại Huyện Vị Xuyên - Tỉnh Hà Giang Nông Lâm Thủy sản 0
D Những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa đế quốc và địa vị lịch sử của nó trong chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản Môn đại cương 0
D Hoàn thiện định vị sản phẩm của công ty trên thị trường mục tiêu tại công ty Dụng Cụ Cắt và Đo Lường Cơ Khí Luận văn Kinh tế 0
D địa vị pháp lý của công ty hợp danh Luận văn Luật 1
D Phân tích sản phẩm chăn ga gối đệm everon của công ty cổ phần everpia được định vị như thế nào trên thị trường Marketing 0
D Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả trồng khóm (dứa) của các nông hộ tại thành phố vị thanh, tỉnh hậu giang Nông Lâm Thủy sản 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top