kann_yoyo

New Member

Download Khóa luận Tìm hiểu pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam miễn phí





MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI 3
1.1. Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 3
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 3
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 5
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 7
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 12
1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài 12
1.2.2. Vai trò của pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 15
1.2.3. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước
trên thế giới 15
1.2.4. Khái lược sự hình thành và phát triển của pháp luật về
ĐTTTRNN ở Việt Nam 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 23
2.1. Về chủ thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 23
2.2. Về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 25
2.3. Về thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 26
2.4. Về hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 35
2.5. Về lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 37
2.6. Về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài 39
2.7. Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 43
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI 45
3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài 45
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài 51
KẾT LUẬN 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

01/TT - BKH ngày 30/08/2001 của Bộ KH - ĐT về hướng dẫn hoạt động ĐTRNN của DN Việt Nam thì chủ thể của hoạt động ĐTRNN chỉ là các DN Việt Nam, cụ thể bao gồm:
- Một là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước ;
- Hai là, hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
- Ba là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Công ty;
- Bốn là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân;
(Các doanh nghiệp nêu tại khoản này sau đây gọi tắt là doanh nghiệp Việt Nam)
Tại thời điểm NĐ 22 năm 1999 được ban hành, chính sách của Việt Nam là thu hút vốn ĐTNN với hàng loạt chính sách ưu đãi bên cạnh quan điểm phi kinh tế: đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn, làm giảm đầu tư trong nước. Vì vậy, quy định của pháp luật về đầu tư đã theo hướng thắt chặt quy chế ĐTRNN.
Việc chỉ cho phép các nhà đầu tư là DN Việt Nam (không bao gồm doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh) được tham gia vào hoạt động kinh doanh mới mẻ này không những hạn chế một số lượng lớn các nhà đầu tư muốn được ĐTRNN mà còn tạo ra sự phân biệt, đối xử không bình đẳng giữa các nhà đầu tư, các loại hình doanh nghiệp đang cùng tồn tại.
Có thể quy định này được lý giải bởi: các chủ thể không phải là DN thì không thể có đủ khả năng về quản lý cũng như tài chính để có thể tham gia vào sân chơi chung rất khắt khe và tiềm ẩn nhiều rủi ro này. Như cá nhân, hộ gia đình thông thường chỉ sản xuất với quy mô nhỏ, cách thức tổ chức thủ công không hề phù hợp với tính phức tạp của ĐTTTRNN [7]. Nhưng hiện nay, kinh tế phát triển, các chủ thể không ngừng phấn đấu nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của mình và mở rộng quy mô sản xuất, nhu cầu được tiến xa hơn, không chỉ giới hạn trong thị trường trong nước, các chủ thể có đủ khả năng và điều kiện để tiến hành ĐTTTRNN. Giải quyết bất cập này, NĐ78/2006 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát huy có chọn lọc những mặt tích cực, cũng như khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành về ĐTTTRNN nhằm mở rộng và phát triển quyền tự chủ, tự do kinh doanh, ghi nhận quyền ĐTRNN cho tất cả các loại hình DN, không phân biệt sở hữu, đã đăng ký theo Luật Doanh nghiệp mới hay chưa, kể cả các cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học và các hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam, phạm vi chủ thể ĐTTTRNN đã được mở rộng một cách đáng kể như sau:
- Một là, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp;
- Hai là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước chưa chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
- Ba là, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư;
- Bốn là, doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp;
- Năm là, hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
- Sáu là, cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thể thao và các cơ sở dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi;
- Bảy là, hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam;
Quy định mới này đã củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy mọi tiềm năng kinh tế tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể kinh doanh, tạo ra sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
Về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Điều kiện ĐTTTRNN chính là thước đo cho chính sách khuyến khích ĐTTTRNN, cũng đồng thời phản ánh thái độ của nhà nước đối với hoạt động này. Tại NĐ 22 năm 1999 thái độ của nhà nước thể hiện rõ thông qua các điều kiện đối với nhà đầu tư để được ĐTRNN như sau:
- Một là, dự án ĐTRNN có tính khả thi;
- Hai là, có năng lực tài chính, đáp ứng yêu cầu ĐTRNN;
- Ba là, thực hiện đầu đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước.
Thực tiễn đã chứng minh các quy định trên chưa tạo điều kiện cho nhà ĐTRNN, vì pháp luật không hề giải thích rõ các tiêu chí của một dự án ĐTTTRNN được coi là có tính khả thi. Nên việc xem xét điều kiện này là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cơ quan có thẩm quyền, rất dễ dẫn đến tiêu cực. Như vậy với quy định này nhà nước đã can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư của nhà đầu tư, tạo cơ hội cho một bộ phận cán bộ “biến chất” có điều kiện gây phiền phức cho nhà đầu tư. Nhà nước cần cho nhà đầu tư tự quyết định, tăng tính tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư. Do đó việc đặt ra điều kiện về “tính khả thi” là hoàn toàn không cần thiết.
DN Việt Nam được tiến hành ĐTTTRNN không chỉ đáp ứng điều kiện về tính khả thi của dự án, pháp luật còn yêu cầu DN đó có năng lực tài chính đáp ứng yêu cầu ĐTRNN. Trong khi không hề có văn bản hướng dẫn cụ thể nào về tiêu chí “năng lực tài chính” của doanh nghiệp thế nào được coi là đáp ứng được yêu cầu ĐTRNN. Vì vậy, rõ ràng quy định này chưa tạo được tính thông thoáng cần thiết đối với hoạt động ĐTRNN của nhà nước ta thời điểm lúc bấy giờ. Sự cân nhắc có phần quá khắt khe và chặt chẽ trước khi quyết định đồng ý cho một DN Việt Nam tiến hành ĐTTTRNN đã tạo ra rào cản lớn đối với chính hoạt động này. Một doanh nghiệp mạnh dạn tiến hành ĐTRNN nhằm mở rộng thị trường tất yếu sẽ phải đối diện với rất nhiều khó khăn, thử thách ở một môi trường cạnh tranh lớn hơn, tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn thì sự hỗ trợ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi từ phía nhà nước là hết sức cần thiết, nhưng những quy định này của pháp luật lại đặt ra quá nhiều cản trở, gây không ít khó khăn cho họ. Vì các quy định về “tính khả thi” và “năng lực tài chính đáp ứng yêu cầu ĐTRNN” này đã dẫn tới hệ quả thời gian cấp phép bị kéo dài do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có đủ thời gian xem xét kỹ lưỡng về tính khả thi của dự án và khả năng tài chính của nhà đầu tư.
Khắc phục những hạn chế trên, hiện nay tại khoản 1 Điều 76 Luật đầu tư 2005 quy định các điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng khi tiến hành ĐTRNN theo hình thức ĐTTT là:
- Một là, có dự án ĐTRNN;
- Hai là, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam;
- Ba là, được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp giấy chứng nhận đầu tư ;
NĐ 78 năm 2006 quy định về ĐTTTRNN đã cụ thể hoá các điều kiện trên tại Điều 4 như sau:
- Một là, có dự án ĐTTTRNN;
- Hai là, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam;
- Ba là, tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn nhà nước đối với các trường hợp sử dụng vốn nhà nước để ĐTTRNN;
- Bốn là, được Bộ KH – ĐT cấp giấy chứng nhận đầu tư ;
Như vậy, Luật đầu tư đã có những quy định thông thoáng và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư ĐTTTRNN, các nhà đầu tư chỉ còn phải đáp ứng một số điều kiện mang tính chất nghĩa vụ dưới góc đ
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D [Free] Khóa luận Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về chế độ tiền lương tại Công ty cổ phần g Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Khóa luận Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng con đường trọng tài tron Tài liệu chưa phân loại 0
B [Free] Khóa luận Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và thực trạng tại Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 4
X [Free] Khóa luận Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại Tài liệu chưa phân loại 3
M [Free] Khóa luận Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Khóa luận Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ theo luật doanh nghiệp (2005) Tài liệu chưa phân loại 0
R [Free] Khóa luận Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Khóa luận Quy chế pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài – liên hệ với quy chế pháp lý của n Tài liệu chưa phân loại 0
B [Free] Khóa luận Tìm hiểu pháp luật về quyền sở hũư công nghiệp Tài liệu chưa phân loại 1
A [Free] Khóa luận Thực trạng quy định pháp luật về đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT và một số kiến n Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top