daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ lọc dòng ngược bùn sinh học USBF (Upflow Sludge Blanket Filter) được thiết kế dựa trên trên mô hình động học xử lý BOD, nitrate hoá (nitrification) và khử nitrate hóa (denitrification) để xử lý nước thải khu du lịch Non Nước.
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà nguồn nước sạch ngày càng thiếu thốn,
vệ sinh môi trường đang bị ô nhiễm nặng nề, đó là những vấn đề khá nóng bỏng và đáng
quan tâm trên toàn thế giới cũng như ở Việt Nam. Sự phát triển nhanh chóng của các làng
nghề, các ngành công nghiệp và dịch vụ, quá trình đô thị hoá và tập trung dân cư nhanh
chóng là những nguyên nhân gây nên hiện trạng quá tải môi trường. Nước thải không
được xử lý hay xử lý không đầy đủ được xả trực tiếp vào sông và kênh rạch gây nên hiện
tượng ô nhiễm nguồn nước trầm trọng.
Hiện nay có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng trong công nghệ xử lý
nước thải đô thị và các làng nghề. Nhưng phương pháp ứng dụng công nghệ sinh học
đang được sử dụng phổ biến nhất trong hầu hết các hệ thống xử lý. Thường thì một hệ
thống xử lý được đánh giá bởi hiệu quả của việc xử lý như khả năng loại bỏ BOD, nito
hay phospho…, khả năng áp dụng của chúng như giá thành của hệ thống, giá thành của
một m3 nước được xử lý hay độ phức tạp của công nghệ và quá trình vận hành, bảo dưỡng
thiết bị…
Công nghệ lọc dòng ngược bùn sinh học USBF (Upflow Sludge Blanket Filter) được
thiết kế dựa trên trên mô hình động học xử lý BOD, nitrate hoá (nitrification) và khử
nitrate hóa (denitrification) của Lawrence và McCarty, Inc. lần đầu tiên được giới thiệu ở
Mỹ những năm 1990 sau đó được áp dụng ở châu âu từ những năm 1998 trở lại đây.
Chúng tui sử dụng mô hình công nghệ USBF để xử lý nước thải khu du lịch Non
Nước và có thể áp dụng cho một số làng nghề và đô thị khác, là công nghệ cải tiến của
quá trình bùn hoạt tính trong đó kết hợp 3 quá trình Anoxic, Aeration và lọc sinh học
dòng ngược trong một đơn vị xử lý nước thải. Đây chính là điểm khác với hệ thống xử lý
bùn hoạt tính kinh điển, thường tách rời ba quá trình trên nên tốc độ và hiệu quả xử lý
thấp. Với sự kết hợp này sẽ đơn giản hoá hệ thống xử lý, tiết kiệm vật liệu và năng lượng
chi phí cho quá trình xây dựng và vận hành hệ thống. Đồng thời hệ thống có thể xử lý
nước thải có tải lượng hữu cơ, N và P cao.
Phần I : TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về khu du lịch Non nước
1.1.1. Lịch sử phát triển
Làng điêu khắc đá Non Nước nằm bên con sông Cổ Cò trên đường từ Đà Nẵng đi
Hội An có tuổi đã non 400 năm. Tấm bia cổ lưu giữ ở chùa Phổ Khánh (làng Ái Nghĩa, xã
Đại Hoà, huyện Đại Lộc - Quảng Nam), năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3, đời Lê
Hy Tông cho biết, trong số những lưu dân Đồng bằng sông Mã mở đất về phương Nam,
cụ Huỳnh Bá Quát - người Thanh Hoá - cùng một số anh em trong họ Mạc dừng lại dưới
chân 5 ngọn núi Ngũ Hành dựng làng, đặt tên là Quán Khái - nay là xã Hoà Hải, quận
Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng. Việc chọn đất lập làng ở Non Nước bấy giờ không ngẫu nhiên
vì trong hành trang "mở đất", ngoài hy vọng tìm nguồn sống trên một vùng đất mới, cụ
còn mang theo cả nghề điêu khắc đá của ông cha và suốt một dải đất Nam Hải Vân đến
đèo Cả, không nơi nào đá tốt bằng đá ở đây. Có những gia đình theo đuổi nghề đẽo đá đã
qua mười mấy đời. Ngày chúa Nguyễn dựng kinh đô ở Huế, cần nghệ nhân trang trí cung
điện, làng cung cấp thợ giỏi; xây lăng Bác, làng cũng cử người chọn những phiến đá đẹp
nhất âm thầm xuyên qua bm đạn, đồn bót và sự lùng sục của địch chuyển ra miền Bắc.
Cách Đà Nẵng chưa đầy 10 cây số, làng nghề điêu khắc đá Non Nước đã lên phố thị
từ lâu, nhất là sau thời điểm năm 1990 khi nơi đây được du khách biết đến như một thắng
tích với 5 ngọn núi được thiên tạo khéo léo bên bờ biển có tên đặt theo ngũ hành - kim,
mộc, thuỷ, hoả, thổ. Năm 1986 - thời điểm bắt đầu cho sự thịnh vượng, làng nghề có 37
hộ sản xuất, với 150 lao động, thì hiện nay số hộ sản xuất kinh doanh nghề đá đã tăng gấp
11 lần với hơn 3.000 lao động. Tổng giá trị sản phẩm năm 2005 đã đạt xấp xỉ 100 tỉ đồng.
Trên con đường Huyền Trân Công Chúa vào cổng khu du lịch Sandy Beach cách đây vài
năm vốn hoang vắng chỉ có cát và cây dương liễu, nhưng nay san sát hàng trăm xưởng
điêu khắc được mở ra đục đẽo chi chát suốt ngày đêm. Các loại sản phẩm nhỏ lưu niệm
truyền thống dành cho khách du lịch nay làm theo kiểu được chăng hay chớ chứ không
chú trọng như trước. Hầu hết đều tập trung cho những công trình tạc tượng tôn giáo có giá
trị lớn, dành cho trang trí ngoài trời hay chùa, nhà thờ
ại làng đá mỹ nghệ
Trước đây, nếu như mọi công đoạn sản xuất đều được làm thủ công, bằng đôi
tay khéo léo của người thợ, thì nay, để đáp ứng nhu cầu đặt hàng ngày càng nhiều, người
thợ đã sử dụng acid loãng trong quá trình tẩy rửa, mài và làm bóng sản phẩm. “Công
nghệ” này một mặt vừa rút ngắn thời gian cho ra lò một sản phẩm, vừa làm cho sản phẩm
có độ bóng và đẹp hơn nên càng ngày càng có nhiều người sử dụng.
Acid thường được pha với nước lạnh. Trong quá trình chế tác, người thợ sẽ xối loại
acid này lên sản phẩm, sau đó dùng giấy nhám mịn đánh bóng. Trông thấy những đám bọt
acid trôi lênh láng khắp xưởng mà không khỏi giật mình. Kinh hoàng hơn khi nghĩ rằng
lượng acid đó sẽ ngấm dần xuống lòng đất, thẩm thấu vào nguồn nước sinh hoạt.
Quy trình công nghệ sản xuất các loại tượng đá không sử dụng màu
Từ quy trình sản xuất cho thấy, ngoài bụi và tiếng ồn phát sinh, lượng nước thải ra
khá lớn từ các khâu như cưa, mài, cắt, đánh bóng, chứa chủ yếu cặn bột đá và lượng axit
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top