Link tải luận văn miễn phí cho ae

LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ 4
TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ 4
1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985 4
2. Giai đoạn từ khi BLHS năm 1985 ra đời đến khi ban hành BLHS năm 1999 8
2.1. BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả 8
2.2. BLHS năm 1999 và những tiến bộ của nó về tội sản xuất, buôn bán hàng giả so với BLHS năm 1985 12
CHƯƠNG HAI 14
TỘI SẢN XUÂT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 156 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 14
1. Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 14
1.1. Khách thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 14
1.2. Mặt khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 22
1.3. Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 27
2. Mặt chủ quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 30
3. Hình phạt đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả 33
3.1. Hình phạt chính 33
3.2. Hình phạt bổ sung 38
4. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với một số tội phạm khác của BLHS năm 1999 39
4.1. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 171 BLHS 39
4.2. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với các tội sản xuất , buôn bán hàng giả khác tại Điều 157, 158 BLHS 40
4.3. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với các tội làm giả khác tại các Điều 164,180,181 BLHS 41
CHƯƠNG III 43
THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ TRONG NHỮNG NĂM GÂN ĐÂY(2003-2007) 43
1. Thực tiễn xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả từ năm 2003 đến năm 2007 43
2. Những hạn chế của hoạt động xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả và những nguyên nhân của những hạn chế đó 46
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả 51
CÁC CHỮ VIẾT TẮT 54
LỜI NÓI ĐẦU

Thực hiện đường nối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã được đề ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ sáu năm 1986 trong hơn 20 năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn như: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng cao, trật tự an ninh xã hội được giữ vững, tỷ lệ xóa mù chữ là cao nhất thế giới….mặc dù bước đầu đã gặp không ít chông gai. Hiện nay trong mắt bạn bè thế giới Việt Nam đã trở thành đối tác đáng tin cậy. Để đưa đất nước tiến lên CNXH thì vấn đề phát triển kinh tế có ý nghĩa then chốt, quyết định. Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta đang phải đương đầu với rất nhiều những khó khăn thử thách rất lớn. Tình hình tội phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay đang ngày càng gia tăng, tinh vi và phức tạp, trong đó tội sản xuất, buôn bán hàng giả đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.
Theo đánh giá của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tổng giá trị hàng giả được mua bán hàng năm trên thế giới khoảng 500 tỷ Euro gấp đôi ngân sách nước Đức. Hiện nay hàng giả chiếm lĩnh 1/10 thương mại thế giới, trong đó các loại hàng được làm giả nhiều nhất có: cứ 3 chiếc đĩa CD thì có 1 chiếc được sao chép trái phép; các mặt hàng như: quần áo, phụ kiện may mặc, mỹ phẩm và nước hoa chiếm khoảng 1/3 tổng số hàng giả thế giới, phần mềm máy tính là 35%, video, DVD và CD là 25%. Đồng hồ Thụy Sỹ giả mạo được bán nhiều hơn hàng thật: 40 triệu chiếc giả so với 26 triệu chiếc đồng hồ thật. Ta có thể thấy hàng giả đang lan tran khắp mọi nơi và trở thành vấn nạn của các quốc gia, Việt Nam chúng ta cũng phải đối mặt với vấn nạn này. Nạn hàng giả này không chỉ gây ra những thiêt hại to lớn về kinh tế, làm tổn hại về vật chất, mất uy tín quốc gia, nhà sản xuất, người tiêu dùng mà tai hại hơn nó còn có thể gây ra những thiêt hại về sức khỏe, tính mạng của con người. Từ thực tế này đòi hỏi phải có những biệm pháp để ngăn chăn đẩy lùi nạn hàng giả, trong đó pháp luật hình sự là một biện pháp hữu hiệu. Do đó vấn đề nghiên cứu khoa học, phân tích, đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, chúng tui chọn đề tài : “ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156 Bộ luật hình sự lý luân và thực tiễn” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Mục đích của khóa luân là nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999, từ đó đối chiếu quy định pháp luật với thực tiễn xét xử để tìm ra những bất cập, vướng mắc, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Nhiệm vụ của đề tài là khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán hàng giả; nghiên cứu quy định của Điều 156 BLHS năm 1999 để thấy những tiến bộ, hạn chế cần khắc phục, sửa chữa; tìm hiểu thực tiễn xét xử, đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động này đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của Điều156 BLHS năm 1999 về tội sản xuất, buôn bán hàng giả, thực tiễn xét xử tội phạm này trong những năm gần đây(2003-2007).
Phạm vi của đề tài là tội sản xuất, buôn bán hàng giả dưới góc độ luật hình sự trong khoảng thời gian từ 2003 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống kê….dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, thì khóa luận này có kết cấu như sau:


Chương một: Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Chương hai : Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo BLHS năm 1999.
Chương ba : Thực tiễn xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong những năm gần đây(2003-2007).
CHƯƠNG MỘT
LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ
TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

Bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, nước ta đang tiến sâu hơn vào quá trình hội nhập toàn diện với quốc tế và khu vực. Trước những tác động và yêu cầu của quá trình hội nhập đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt, trong đó sự thay đổi trong kinh tế là lớn nhất và quan trọng nhất. Để quản lý tốt “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” theo đúng chủ trương đường nối của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh những chính sách về phát triển kinh tế thì chính sách hình sự về các tội phạm xâm hại tới trật tự quản lý kinh tế cũng phải ra đời và phù hợp, linh hoạt, chặt chẽ hơn. Chương XVI- BLHS năm 1999 quy định “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” đã đáp ứng phần nào đòi hỏi này. Trong 29 điều luật (từ Điều 153 đến Điều 181) thì “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” được quy định tại Điều 156 nhằm đấu tranh chống nạn hàng giả, buôn bán hàng giả nói riêng và các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung. Lịch sử lập pháp hình sự nước ta về “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả”cũng đã được quy định và có sự trừng trị rất nghiêm khắc đối với các hành vi phạm tội này. Có thể khái quát như sau:
1.1.Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985.
Ngày 2/9/1945 Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời - “Nhà nước công nông đầu tiên của Đông nam á”. Nhà nước và bộ máy của nó vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với bao khó khăn và thử thách: “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm,…” Để bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng tháng tám năm 1945, bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp mình, nhiệm vụ quan trọng và hàng đầu của nhà nước ta là giữ vững an ninh quốc gia, ổn định kinh tế đảm bảo đời sống cho nhân dân. Nhiều chính sách luật được ra đời (Sắc luật) nhưng chưa thể cho ra đời một chính sách Luật hình sự được pháp điển hóa do hoàn cảnh lịch sử chưa cho phép. Trong khoảng tời gian từ năm 1945 đến năm 1975, đất nước ta liên tục có chiến tranh, cả nước tập trung toàn bộ sinh lực vào cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước, các văn bản pháp luật mang tính hình sự ra đời cũng chỉ tập chung vào quy định các tội có liên quan đến cuộc chiến như: tội phản cách mạng; tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; các tội về kinh tế thì là: tội đầu cơ, buôn bán hàng cấm…có ảnh hưởng nhiều tới cuộc chiến tranh. “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” trong giai đoạn này không hề được quy định trong bất kỳ một văn bản pháp luật mang tính hình sự nào. Do tại thời điểm này, nền kinh tế nước ta còn bao cấp mà tất cả sinh lực của đất nước đều tập chung cho cuộc chiến tranh, hành hóa lưu thông trên thị trường đều do các doanh nghiệp nhà nước sản xuất hay do các nước viên trợ, chính vì vậy mà hàng giả gần như là không có cơ hội phát triển.
Năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, nền kinh tế đất nước sau chiến tranh hết sức cùng kiệt nàn và lạc hậu, bọn tư sản mại bản được sự tiếp tay của tư sản nước ngoài không ngừng gây rối loạn thị trường, trong đó nạn hàng giả cũng là một trong những nguyên nhân gây rối loạn. Nhằm ổn định thị trường, thắt chặt sự quản lý nhà nước đối với nền kinh tế, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam ban hành Sắc luật số: 03.SL ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt. “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” cũng được quy định tại Sắc luật này trong các tội kinh tế:
“Điều 6. Tội kinh tế.
Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về tài chính cho Nhà nước, cho Hợp tác xã hay cho tập thể nhân dân, gây trở ngại cho việc khôi phục và phát triển sãn xuất, cho việc ổn định đời sống nhân dân, gồm các tội:
-Sản xuất hàng giả cố ý lừu gạt người tiêu thụ;
-Kinh doanh trái phép, cố ý trốn tránh quy định của Nhà nước;
- Làm bạc giả, hay tiêu thụ bạc giả;

Phạm một trong các tội trên đây, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và phạt tiền đến năm mươi nghìn đồng Ngân hàng hay một trong hai hình phạt đó. Trong trừong hợp nghiêm trọng, thì phạt tù đến hai mươi9 năm, tù chung thân hay xử tử hình và bị tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản.”
Việc quy định tội sản xuất hàng giả trong Sắc luật số: 03.SL đã đáp ứng phần nào yêu cầu đấu tranh chống tội phạm về hàng giả trong tội phạm về kinh tế. Qua đó thể hiện được tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội sản xuất hàng giả và thái độ của Nhà nước đối với tội phạm này là rất nghiêm khắc. Nhưng Sắc luật số: 03.SL bên cạnh những ý nghĩa tích cực còn bộc lộ những hạn chế nhất định và quy định tội sản xuất hàng giả cũng vậy. Sắc luật chưa có sự phân hóa các tội phạm về kinh tế nói chung và tội sản xuất hàng giả nói riêng. Điều 6 của Sắc luật chỉ quy định “Sản xuất hàng giả cố ý lừu gạt người tiêu thụ” mà không quy định hành vi buôn bán hàng giả cũng là tội phạm, không đưa ra những đối tượng hàng giả cụ thể như: hàng giả; hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, …mà chỉ quy định hàng giả chung chung, thậm chí còn không có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn hàng giả là loại hàng hóa như thế nào? Việc quy định như vậy là không cụ thể và đầy đủ. Về hình phạt, điều luật quy định hình phạt áp dụng chung cho các tội phạm, việc quy định như vậy chưa cho thấy rõ mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng loại tội phạm, cũng như chế tài áp dụng đối với tội phạm đó. Là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về các tội phạm thuộc lĩnh vực kinh tế như thế này thì Sắc luật còn quá nhiều những hạn chế cả về kỹ thuật lập pháp cũng như khả năng áp dụng trong thực tiễn của pháp luật, gây ra không ít những khó khăn trong việc giải quyết các vụ án trong thực tiễn xét xử của tòa án. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử mà Sắc luật này vẫn được áp dụng trong cả nước từ năm 1978 cho đến năm 1982.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

KaioInvoke

New Member
Re: [Free] Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156 Bộ luật hình sự lý luân và thực tiễn

................................................................................................................................................................
 

daigai

Well-Known Member
link mới cập nhật, mời các bạn xem lại bài đầu để tải
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top