daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................8
1.1. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản ....................................8
1.1.1. Khái niệm đồng phạm....................................................................................8
1.1.2. Khái niệm tội trộm cắp tài sản.......................................................................9
1.1.3. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản ........................................11
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ........................................13
1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm.......................................13
1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm .............................16
1.2.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm...........................................19
1.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm .................................20
1.3. Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội
trộm cắp tài sản..........................................................................................21
Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN CÓ ĐỒNG
PHẠM TẠI HÀ GIANG ...........................................................................29
2.1. Một vài nét về tình hình kinh tế chính trị ảnh hưởng tới diễn biến
tội trộm cắp tài sản có đồng phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang............29
2.2. Tình hình giải quyết và những kết quả đạt được trong công tác xét
xử các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang ...........31
2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết các vụ án trộm cắp
tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang..................................................47
2.4. Một số nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến thực tiễn
xét xử tội trộm cắp tài sản có đồng phạm tại Hà Giang ........................68
2.4.1. Nguyên nhân về pháp luật ...........................................................................68
2.4.2. Nguyên nhân về áp dụng pháp luật .............................................................76
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỒNG PHẠM ĐỐI VỚI TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN ..............................................................................79
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội
trộm cắp tài sản..........................................................................................79
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của BLHS Việt
Nam về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản .......................................88
KẾT LUẬN ..............................................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................96
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trộm cắp tài sản là tội rất phổ biến trên địa bàn cả nước, trong đó có tỉnh Hà
Giang. Trộm cắp tài sản có thể do một người thực hiện, cũng có thể do nhiều người
thực hiện. Khi tội trộm cắp tài sản có sự tham gia thực hiện bởi nhiều người và những
hành vi này có sự liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau thì trường hợp đó được gọi là
đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Đồng phạm nói chung và đồng phạm trong tội
trộm cắp tài sản nói riêng là hình thức phạm tội “đặc biệt”, đòi hỏi những điều kiện
riêng, khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ (về số lượng người tham gia
phạm tội, mối liên hệ giữa các đối tượng trong cùng vụ án cũng như tội phạm mà cả
nhóm hướng tới thực hiện). So với tội trộm cắp tài sản do một người thực hiện, đồng
phạm trong tội trộm cắp tài sản thường nguy hiểm hơn vì khi một nhóm người cùng
cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ
tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thức thực hiện,
phát triển thành “phạm tội có tổ chức”, do đó việc xác định trách nhiệm hình sự đối
với những người đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản có một số điểm khác với
những trường hợp phạm tội trộm cắp do một cá nhân thực hiện.
Trong khoa học Luật hình sự, căn cứ vào các đặc điểm về mặt chủ quan và
khách quan của tội trộm cắp tài sản, đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản có thể
chia ra nhiều hình thức: đồng phạm có thông mưu trước trong tội trộm cắp tài sản,
đồng phạm không có thông mưu trước trong tội trộm cắp tài sản; đồng phạm giản
đơn trong tội trộm cắp tài sản và đồng phạm phức tạp trong tội trộm cắp tài sản.
Ngoài ra còn có một trường hợp đặc biệt về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản,
đó là trộm cắp tài sản có tổ chức. Trong các hình thức đồng phạm trộm cắp tài sản
thì chỉ trộm cắp tài sản có tổ chức là tình tiết tăng nặng và tình tiết định khung
hình phạt. Chỉ trên cơ sở nắm vững về các vấn đề lý luận như hình thức đồng
phạm trong tội trộm cắp tài sản, đặc điểm đồng phạm trộm cắp tài sản, cũng như
hiểu sâu sắc các quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn về đồng
phạm và tội trộm cắp tài sản thì mới vận dụng tốt khi giải quyết các vụ án trộm
cắp tài sản có đồng phạm.
Tuy nhiên thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử cho thấy nhận thức về
đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản hiện nay chưa được thống nhất giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng, vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến trái ngược nhau. Những
ý kiến khác nhau này đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có
đồng phạm. Do quy định của pháp luật về chế định đồng phạm chưa được hoàn
thiện, nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng về đồng phạm trong tội trộm cắp
tài sản còn hạn chế nên việc phân định giữa các hình thức đồng phạm, xác định vai
trò, tính chất, mức độ tham gia của từng người đồng phạm còn chưa thống nhất,
chính xác, ảnh hưởng đến công tác xét xử của một số Tòa án tại tỉnh Hà Giang.
Những tồn tại, hạn chế này còn do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan,
song việc xác định, đánh giá đồng phạm trong các vụ án trộm cắp tài sản thiếu
chính xác sẽ dẫn đến việc định tội danh, phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết
định hình phạt đối với các người đồng phạm nhiều khi bị đánh đồng, chưa lượng
hóa được hình phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của vụ án đối với họ.
Những luận điểm nêu trên đã chứng tỏ lý do nghiên cứu đề tài “Đồng phạm
trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn địa
bàn tỉnh Hà Giang) là quan trọng và cấp thiết trong việc hoàn thiện và áp dụng
đúng pháp luật hình sự nhằm bảo đảm xét xử vụ án hình sự được nghiêm minh,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản là những vấn đề có nội dung phong
phú và phức tạp được các luật gia và các nhà nghiên cứu luật quan tâm chú ý và đề
cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình dưới góc độ luật hình sự, tội
phạm học hay xã hội học pháp luật. Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều cách tiếp cận,
nghiên cứu vấn đề đồng phạm nói chung và đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
nói riêng dưới các góc độ khác nhau ở mức chuyên sâu hay khái quát hóa đã được
công bố trên các sách, tạp chí, luận văn luận án, nhưng tựu chung lại thì các nghiên
cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự
và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình nghiên cứu liên
quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: tiếp cận dưới góc độ tội phạm
học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình
nghiên cứu liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: Lê Văn Cảm
(2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách
chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm và Trịnh Quốc
Toản (2011), Định tội danh: lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội; TS.Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật Hình sự
Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội; Đặng Xuân Mai (1989), Làm gì để phòng chống
tội phạm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2010), Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 phần các tội phạm,
Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học BLHS
phần các tội phạm, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh;Viện nghiên cứu khoa học
pháp lý (1993), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Nguyễn Văn Hảo (1962), Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ Tư Pháp, Sài Gòn;
Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam, (Quyển I – Phần chung), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội;Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình luật hình sự
Việt Nam, tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội…
Ngoài ra, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học
chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu có liên quan đến đồng phạm trong tội
trộm cắp tài sản như: Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh
phòng chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Lê Thị
Khanh (2002), Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân,
Hà Nội; Phí Thành Trung (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương
cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự
và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình nghiên cứu liên
quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: tiếp cận dưới góc độ tội phạm
học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình
nghiên cứu liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: Lê Văn Cảm
(2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách
chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm và Trịnh Quốc
Toản (2011), Định tội danh: lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội; TS.Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật Hình sự
Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội; Đặng Xuân Mai (1989), Làm gì để phòng chống
tội phạm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2010), Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 phần các tội phạm,
Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học BLHS
phần các tội phạm, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh;Viện nghiên cứu khoa học
pháp lý (1993), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Nguyễn Văn Hảo (1962), Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ Tư Pháp, Sài Gòn;
Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam, (Quyển I – Phần chung), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội;Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình luật hình sự
Việt Nam, tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội…
Ngoài ra, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học
chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu có liên quan đến đồng phạm trong tội
trộm cắp tài sản như: Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh
phòng chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Lê Thị
Khanh (2002), Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân,
Hà Nội; Phí Thành Trung (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương
(2011), Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai
đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội,
Hà Nội… và một số bài viết, nghiên cứu khác có liên quan như: Lê Văn Cảm (2005)
“Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm”, Tạp chí TAND; Lê Thúy
Phượng (1999), “Vấn đề định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong bộ luật hình sự năm
1999”, Tạp chí TAND; Lê Thị Sơn (2004), “Về dấu hiệu định lượng trong BLHS”,
Tạp chí luật học; Bùi Đăng Hiếu (2005), “Tiền một loại tài sản trong quan hệ pháp
luật hình sự”, Tạp chí Luật học; Bộ Tư pháp (1998),“Luật hình sự của một số nước
trên thế giới”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề; TS.Nguyễn Khắc Hải
(2007) “Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang
Nga”, Tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nội, Số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ
chức”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999…
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một số góc độ về
trường hợp đồng phạm hay tội trộm cắp tài sản, nhưng chưa công trình nào đi sâu
vào các khía cạnh đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản cả về phương diện lý luận
và thực tiễn tại tỉnh Hà Giang.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề mặt lý luận và thực
tiễn tại tỉnh Hà Giang về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, phân tích một cách
khoa học và có căn cứ một số vấn đề có liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp
tài sản để qua đó có được cái nhìn thống nhất, tương đối đầy đủ và đóng góp về mặt
khoa học để góp phần giải quyết những vướng mắc đang được đặt ra khi xác định
giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự
Việt Nam và thực tiễn xét xử về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Hà Giang.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
- Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
- Các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
- Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
- Thực tiễn xét xử và một số tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân đối với việc
giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang
6. Phạm vi nghiên cứu
Về giới hạn vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về đồng phạm
theo quy định của Luật hình sự Việt Nam trong một tội phạm cụ thể đó là tội trộm
cắp tài sản.
Về giới hạn không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc áp
dụng các quy định của pháp luật đồng phạm trong việc xét xử tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Về giới hạn thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu trong giai
đoạn 6 năm từ 2010 - 2015.
7. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài nêu trên là thành tựu từ các chuyên ngành khoa học
pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp
luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh vực triết học,
thành tựu từ các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách chuyên khảo cũng
như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa học – luật gia trong nước
và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước
trong việc giải thích thống nhất các trường hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên
quan đến trường hợp trên trong các văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các
cơ quan bảo vệ pháp luật ban hành ở các mức độ khác nhau.
Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra trong
nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Để từ đó xây dựng, đề cập đến
những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp
quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và bảo vệ các quyền con người.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các
phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra. Các
phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích – chứng minh,
logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương
pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,...Đặc biệt trong đó tác giả
nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ thống, đối chiếu so sánh, lịch
sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn, phương pháp xã hội học,... để qua đó đưa
ra được những kết luận khoa học mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án
cụ thể sao cho phù hợp nhằm hoàn thiện và hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ
luật hình sự có liên quan đến vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
8. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp xác định được khái
niệm, các đặc điểm của đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản; Dấu hiệu pháp lý của
tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999; Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội trộm cắp tài
sản từ đó đưa ra những kiến nghị về mặt lập pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện quy
định về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Việc xây dựng các quy phạm pháp
luật phù hợp, đầy đủ, có hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết vấn
đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu một cách khá toàn diện và có hệ thống về việc
áp dụng các quy định pháp luật về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Hà Giang, phân tích những vấn đề chung về giải quyết vấn đề đồng phạm trong
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh, từ đó tìm ra những tồn tại, hạn chế, nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn, nêu lên những điểm bất cập trong các quy định của
pháp luật hình sự hiện hành về vấn đề này, đồng thời đưa ra những giải pháp, kiến
giải để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về đồng phạm trong tội trộm cắp tài
sản theo Luật hình sự Việt Nam và trong thực tiễn áp dụng những quy định này trên
địa bàn tỉnh Hà Giang.
9. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, có tính
hệ thống và tương đối toàn diện về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về
đồng phạm trong vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng xác định và áp dụng đúng đắn, thống nhất các vấn đề về định tội danh
và quyết định hình phạt trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có đồng
phạm, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành
cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng
dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn
còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức cho các cán bộ thực tiễn đang công
tác tại các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án trộm cắp
tài sản có đồng phạm được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
theo Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản có đồng phạm tại Hà Giang.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và giải pháp bảo đảm
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội
trộm cắp tài sản.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm đồng phạm
“Đồng” theo Từ điển tiếng Việt nghĩa là cùng như nhau, không thể khác
được. “Phạm” là làm tổn hại đến cái cần tôn trọng, mắc phải điều cần tránh. Đồng
phạm nghĩa là cùng phạm tội hiểu theo nghĩa của luật hình sự” [3, tr. 245].
Nghiên cứu pháp luật hình sự các nước, chúng ta thấy quan niệm không
giống nhau về khái niệm đồng phạm. Điểm qua quy định của một số nước trên thế
giới quy định về khái niệm đồng phạm thấy rằng:
Bộ luật hình sự (BLHS) Thụy Điển quy định về người đồng phạm là người
phối hợp với người khác cùng thực hiện một hành vi phạm tội hay một người tìm
cách xúi giục người khác phạm tội hay đề nghị người khác phạm tội. “Khi xét xử
từng người đồng phạm phải căn cứ vào việc người đó tham gia thực hiện tội phạm
do cố ý hay vô ý” (Điều 4 – Chương 23). Như vậy, luật hình sự một số nước quan
niệm đồng phạm có cả trong những tội phạm thực hiện do lỗi vô ý.
BLHS Pháp cũng quy định về chính phạm và đồng phạm (tòng phạm). Theo
đó, chính phạm là người thực hiện các hành vi bị coi là tội phạm hay chuẩn bị thực
hiện một trọng tội hay khinh tội trong trường hợp luật quy định (Điều 121.4).
Người có ý thức giúp đỡ hay trợ lực và đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn
bị hay thực hiện tội phạm bị coi là đồng phạm của một trọng tội hay khinh tội.
Người dùng tặng vật, hứa hẹn, đe dọa, dùng mệnh lệnh, lạm dụng chức vụ hoặc
quyền hạn để xúi giục hay có các chỉ dẫn để cho người khác thực hiện tội phạm
cũng bị coi là đồng phạm (Điều 121.7).
BLHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1979 tại Điều 22 quy định:
“Hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Theo Điều
33 BLHS của Liên Bang Nga cũng có quy định: “Hai hay nhiều người cùng cố ý
thực hiện một tội cố ý là đồng phạm”. Như vậy pháp luật hình sự của các nước trên
thế giới có những quy định rất đa dạng về đồng phạm.
Tại Việt Nam, trước khi ban hành BLHS năm 1985 thì chưa có một văn bản
pháp luật hình sự nào quy định thống nhất về khái niệm đồng phạm đối với tội
phạm nói chung. Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc xử lý về hình sự đối với
những trường hợp nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm, BLHS đã có điều
luật riêng quy định về đồng phạm. Khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự 1999 quy định
đồng phạm là trường hợp “có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật hình sự, có thể đưa ra định nghĩa khoa
học về khái niệm đồng phạm như sau:“Đồng phạm là hình thức phạm tội do cố ý
được thực hiện với sự tham gia của 2 người trở lên” [5, tr. 458].
1.1.2. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản là một loại tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất phổ
biến trong xã hội. Hiện nay trên thế giới tồn tại hai khuynh hướng khi quy định về
tội trộm cắp tài sản trong văn bản pháp luật hình sự. Khuynh hướng thứ nhất không
đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội trộm cắp tài sản mà mặc nhiên thừa
nhận nó. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là điển hình cho khuynh hướng này, Điều
264 Bộ luật hình sự nước này quy định: “Người nào trộm cắp tài sản, tiền bạc công
hay tư, thì bị phạt đến ba năm tù”.
Khuynh hướng thứ hai có quy phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài
sản. Các nước như Liên bang Nga, Cộng hòa liên băng Đức, Nhật Bản, Malaixia,
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào… đều thuộc khuynh hướng này. Điều 158 Liên
bang Nga năm 1986 quy định: “Trộm cắp là (hành vi) bí mật chiếm đoạt tài sản của
người khác” [2, tr. 32]. Dựa trên cơ sở khái niệm này có thể xác định dấu hiệu cơ
bản của tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản; sự chiếm đoạt tài sản
được thể hiện một cách bí mật; tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản của người khác.
Điều 142 BLHS của Cộng hòa liên băng Đức được ban hành năm 1871 và được sửa
đổi bổ sung nhiều lần phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội đưa ra khái
niệm của tội trộm cắp tài sản: “Người nào lấy đi vật là động sản của người khác, với
KẾT LUẬN
Tóm lại, qua nghiên cứu đề tài luận văn thạc sỹ luật học: “Đồng phạm trong
tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh
Hà Giang) cho phép chúng tui đưa ra một số kết luận chung dưới đây:
1. Trộm cắp tài sản là tội rất phổ biến trên địa bàn cả nước, trong đó có tỉnh
Hà Giang. Trộm cắp tài sản có thể do một người thực hiện, cũng có thể do nhiều
người thực hiện. Khi tội trộm cắp tài sản có sự tham gia thực hiện bởi nhiều người
và những hành vi này có sự liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau thì trường hợp đó
được gọi là đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Căn cứ vào các đặc điểm về mặt
chủ quan và khách quan của tội trộm cắp tài sản, đồng phạm trong tội trộm cắp tài
sản có thể chia ra nhiều hình thức khác nhau đó là đồng phạm có thông mưu trước
trong tội trộm cắp tài sản, đồng phạm không có thông mưu trước tội trộm cắp tài
sản; đồng phạm giản đơn trong tội trộm cắp tài sản và đồng phạm phức tạp trong
tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra còn có một trường hợp đặc biệt về đồng phạm trong
tội trộm cắp tài sản, đó là trộm cắp tài sản có tổ chức. Từ những nghiên cứu về
mặt chủ quan và khách quan ở phần trên thì trong đồng phạm trộm cắp tài sản dấu
hiệu bắt buộc phải có gồm: dấu hiệu hành vi, năng lực TNHS và độ tuổi thuộc mặt
khách quan của đồng phạm trộm cắp tài sản; dấu hiệu lỗi, động cơ và mục đích
thuộc mặt chủ quan của đồng phạm trộm cắp tài sản. So với tội trộm cắp tài sản do
một người thực hiện, đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản thường nguy hiểm hơn
đáng kể. Do đó việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm
trong tội trộm cắp tài sản đòi hỏi những điều kiện riêng, khác với những trường
hợp phạm tội riêng lẻ.
2. Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản có đồng
phạm vừa phải tuân thủ quy định chung của chế định TNHS và quyết định hình
phạt, vừa phải tuân thủ quy định đặc thù của trường hợp đồng phạm. Các nguyên
tắc đó bao gồm: nguyên tắc tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm
chung về toàn bộ tội phạm đã thực hiện; nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu
trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm; nguyên tắc cá thể hòa
hình phạt của những người đồng phạm. Khi quyết định hình phạt trong đồng phạm
nói chung và đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản phải căn cứ vào: tính chất của
đồng phạm; tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mức độ tham gia
của từng người đồng phạm; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của riêng từng
đồng phạm.Việc nắm vững bản chất pháp lý của định tội danh và quyết định hình
phạt trong đồng phạm sẽ giúp tòa án các cấp giải quyết các vụ án trộm cắp tải sản
có đồng phạm trong thực tế được chính xác.
3. Qua thực tiễn áp dụng quy định về định tội danh và quyết định hình phạt
trong đồng phạm tội trộm cắp tài sản cho thấy vẫn có nhiều thiếu sót như quyết định
hình phạt quá nhẹ hay quá nghiêm khắc, áp dụng chế định án treo chưa phù hợp
với văn bản hướng dẫn, nhận định tính chất của đồng phạm, vai trò, tính chất, mức
độ tham gia của người đồng phạm chưa cụ thể rõ ràng, đánh giá các tình tiết thuộc
về nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chưa toàn diện, còn
bỏ sót tình tiết giảm nhẹ hay không có sự thống nhất trong việc áp dụng tình tiết
tăng nặng giảm nhẹ...Những tồn tại này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau
nhưng chủ yếu là từ một số nguyên nhân cơ bản như còn một số quy định trong
BLHS năm 1999 liên quan tới vấn đề đồng phạm, liên quan tới tội trộm cắp tài sản
chưa được quy định cụ thể rõ ràng, còn nhiều bất cập; thiếu các văn bản hướng dẫn
áp dụng pháp luật hay có một số văn bản hướng dẫn nhưng đã cũ; chất lượng đội
ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân, cán bộ ngành tòa án chưa ngang tầm nhiệm vụ;
những người tiến hành tố tụng còn thiếu tinh thần trách nhiệm… Để nâng cao hiệu
quả hoạt động trong công tác xét xử đối với các tội trộm cắp tài sản có đồng phạm
cần một loạt các giải pháp trong đó chủ yếu tập trung vào giải pháp hoàn thiện pháp
luật, các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về đồng
phạm trong tội trộm cắp tài sản.
Chỉ trên cơ sở nắm vững về các vấn đề lý luận như khái niệm đồng phạm
trong tội trộm cắp tài sản; dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm
theo quy định của BLHS; những căn cứ của việc định tội danh trong tội trộm cắp tài
sản có đồng phạm; các căn cứ quyết định hình phạt trong vụ án trộm cắp tài sản có
đồng phạm cũng như hiểu sâu sắc các quy định của BLHS và các văn bản hướng
dẫn về chế định đồng phạm và tội trộm cắp tài sản thì mới vận dụng tốt khi giải
quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm.
4. Nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn về đồng phạm trong
tội trộm cắp tài sản tại Hà Giang không những là cơ sở khoa học để hoàn thiện các
quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm và tội trộm cắp tài sản trong BLHS
mà nó còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định và áp dụng đúng đắn, thống
nhất các vấn đề về định tội danh và quyết định hình phạt trong quá trình giải quyết
vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang cũng như đóng góp
tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan tới trộm cắp tài
sản và giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa, giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
N Văn hóa làng quê trong thơ lục bát đương đại (Qua thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ) Văn học 0
B Nghiên cứu sự phân bố không đồng nhất về hàm lượng Asen trong nước ngầm trên một phạm vi hẹp minh họ Môn đại cương 0
B Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 40 Luận văn Luật 0
S Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại người đồng phạm trong Luật Hình sự Việt Nam : Luận Luận văn Luật 0
F Người tổ chức trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 40 Luận văn Luật 0
T Người thực hành trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 40 Luận văn Luật 0
M Quyết định hình phạt trong đồng phạm : Luận văn ThS. Luật: 60 38 40 Luận văn Luật 0
T Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế : Luận văn Luật 0
T (Phạm Thị Nga) 31/10/2013: Trong Năm N, công ty đã vi phạm hợp đồng về cung cấp dịch vụ cho khách Hỏi đáp Thuế & Kế toán 1
X [Free] Khóa luận Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại Tài liệu chưa phân loại 3

Các chủ đề có liên quan khác

Top