daigai

Well-Known Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI

ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Hải quan được Quốc hội nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006.
Theo quy định mới, phương pháp quản lý nhà nước về hải quan được thay đổi một cách
căn bản. Công tác kiểm tra giám sát hải quan dựa vào phương pháp quản lý rủi ro,
chuyển dần từ "Tiền kiểm" sang "Hậu kiểm". Chính sự đổi mới này đã khẳng định rõ nét
vai trò vị trí của công tác kiểm tra sau thông quan (KTSTQ), đồng thời tạo ra những
thách thức lớn cho công tác KTSTQ để đáp ứng được các nhiệm vụ, yêu cầu quản lý
ngày càng cao. Cơ hội để khẳng định, nâng cao vai trò vị thế của mình là ở chỗ - việc
tăng cường công tác KTSTQ đã trở thành yêu cầu cấp thiết, bắt buộc và tất yếu của toàn
ngành hải quan trong giai đoạn trước mắt, nhằm từng bước đưa hoạt động này đi vào nề
nếp, hoạt động vững chắc, đảm bảo thực hiện đúng Luật Hải quan (SĐBS), tạo thông
thoáng cho hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư, phù hợp với
xu thế đơn giản hoá, hài hoà hoá và hiện đại hoá TTHQ, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
nhưng vẫn đảm bảo quản lý nhà nước về hải quan. Thách thức là ở chỗ: khi nhiệm vụ
được mở rộng, tăng cường, phức tạp hơn... đòi hỏi phải có được trước hết là một đội ngũ
cán bộ làm công tác KTSTQ có đủ năng lực, trình độ, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của
hoạt động KTSTQ; một hệ thống các UBPL rõ ràng, minh bạch, khả thi làm hành lang
pháp lý cho hoạt động KTSTQ được thực hiện một cách chính xác, một cơ chế phối hợp
thực hiện hiệu quả giữa các cơ quan trong và ngoài ngành với lực lượng KTSTQ...
Tuy nhiên, nhìn lại chặng đường phát triển của công tác KTSTQ từ trước khi có
Luật Hải quan và ngay cả khi Luật Hải quan (SĐBS) có hiệu lực, nhìn chung công tác
KTSTQ triển khai vẫn còn chậm, chưa có những chuyển biến rõ rệt và chưa thực sự hiệu
quả. Thực trạng này là do cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan cần
tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ trong thời gian tới.
Trong phạm vi cho phép của một bài tiểu luận, người viết chỉ xin được đề cập
một cách khái quát những suy nghĩ bước đầu của mình về thực trạng công tác KTSTQ,
trên cơ sở đã thống nhất xác định phương hướng chung cũng như một số giải pháp nhằm
tăng cường hiệu quả của hoạt động KTSTQ.
1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGHIỆP VỤ KIỂM TRA SAU THÔNG
QUAN
1.1. Vài nét về lịch sử hình thành nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan
+ Tổ chức Hải quan thế giới (WCO):
Ngay từ những năm 60 của Thập kỷ XX Hội đồng hợp tác hải quan (Tổ chức Hải
quan thế giới ngày nay) đã bắt tay nghiên cứu các biện pháp quản lý hải quan tiên tiến,
trong đó có biện pháp tiến hành kiểm tra sau khi hàng hoá đã được thông quan, cơ sở
kiểm tra là các chứng từ hải quan, sổ sách kế toán và các loại giấy tờ khác còn lưu lại tại
cơ quan hải quan, tại doanh nghiệp và các bên liên quan khác về hàng hoá đã thông quan
hay còn gọi bằng một thuật ngữ chuyên môn là "kiểm tra trên cơ sở kiểm toán".
Trên thực tế, Hải quan một số nước từ lâu ễa áp dụng các biện pháp quản lý này
khi tiến hành các cải cách về thủ tục hải quan, hiện đại hoá các quay trình thủ tục hải
quan. Việc áp dụng biện pháp kiểm tra sau thông quan giúp cơ quan Hải quan tập trung
vào việc chỉ kiểm tra những đối tượng trọng điểm có các hoạt động xuất nhập khẩu, nhập
khẩu không minh bạch. Đây là một công có hữu hiệu đối với công tác kiểm tra giám sát
của Hải quan bởi vì:
- Nó đưa ra một bức tranh rõ ràng và đầy đủ về các giao dịch có liên quan tới
hoạt động Hải quan, được phản ánh trong các sổ sách và ghi chép của doanh nghiệp;
- Đồng thời kiểm tra sau thông quan cũng cho phép cơ quan Hải quan áp dụng
các biện pháp giám sát Hải quan theo hướng đơn giản hoá, ưu tiên làm thủ tục hải quan
nhanh chóng, thuận tiện đối với doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan;
- Kiểm tra sau thông quan là một trong những biện pháp đấu tranh gian lận
thương mại có hiệu quả nhất;
Hiện nay Hải quan nhiều nước, khu vực thuộc Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)
và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã áp dụng các biện pháp kiểm tra sau thông
quan trong công tác nghiệp vụ quản lý hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Tuy nhiên để xác định lịch sử và nguồn gốc hình thành nghiệp vụ quản lý này là một vấn
đề khó; vì nghiệp vụ này được hình thành và hoàn thiện dần cùng với việc hình thành và
hoàn thiện khoa học về quản lý rủi ro trong hoạt động của các cơ quan Hải quan trên thế
giới trong những năm gần đây. Công ước về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan
(Công ước Kyoto) ngày 18/05/1973 có hiệu lực ngày 25/09/1974 đã manh nha có những
quy định bước đầu về kiểm tra sau thông quan. Nhưng cho đến những năm sau này, trong
quá trình nghiên cứu áp dụng các biện pháp quản lý mới tại một số nước thì hoạt động
nghiệp vụ này mới được Tổ chức Hải quan Thế giới đưa vào chương trình và có thể vào
tháng 9 năm 1999 thì Công ước Kyoto được sửa đổi bổ sung thì vấn đề mới chính thức
được nêu ra tại Phần phụ lục tổng quát, Chương VI có quy định về các hoạt động này với
tên gọi là kiểm toán sau thông quan và kiểm toán hệ thống sổ sách doanh nghiệp. WCO
đã khuyến nghị các nước thành viên nhanh chóng hoàn chỉnh và tiến tới áp dụng rộng rãi
hệ thống kiểm tra hàng hoá sau khi thông quan nhằm tạo thuận lợi nhất cho hoạt động
thương mại và nhấn mạnh rằng kiểm tra hải quan là một hệ thống tổng thể bao gồm các
biện pháp kiểm tra khác nhau như kiểm tra hải quan trước thông quan, kiểm tra hải quan
trong quá trình thông quan hàng hoá xuất nhập khẩu và kiểm tra sau thông quan.
Thực tế công tác kiểm tra sau thông quan của Hải quan một số nước đó đạt được
nhiều thành tích đáng quan tâm và rất đáng học hỏi đối với hoạt động nghiệp vụ mới mẻ
này của Hải quan Việt Nam.
+ Tổ chức Hải quan ASEAN: Trong các nước ASEAN khi tiến hành biện pháp
kiểm tra sau thông quan không có một khuôn mẫu chung nào bởi mỗi nước áp dụng các
phương pháp triển khai thực hiện khác nhau. Do đó để thực hiện kiểm tra sau thông quan,
Tổ chức ASEAN đó nghiên cứu xây dựng một cuốn sách hướng dẫn về vấn đề này để
định hướng cho các nước thành viên áp dụng một chiến lược tổng thể và có phương pháp
chung thực hiện thống nhất trong Khối. Tổ chức này đã xây dựng kế hoạch hành động hải
quan ASEAN về kiểm toán sau thông quan (PCA) với các mục tiêu là:
- Cung cấp một diễn đàn để trao đổi thông tin và kinh nghiệm về kiểm toán hải
quan sau thông quan.
- Thiết lập sự hiểu biết hơn về thực trạng của việc thực hiện PCA ở từng nước
thành viên.
- Xác định nhu cầu trợ giúp kỹ thuật và các hoạt động hợp tác khu vực khác tiếp
theo mà chúng sẽ hỗ trợ các nước thành viên trong việc thực hiện PCA.
Trong khối ASEAN có hai nước có hệ thống Kiểm tra sau thông quan khá phát
triển, đó là: Hải quan Indonesia và hải quan Thái Lan:
- Luật Hải quan Inđônêxia ban hành năm 1995 tại các Điều từ 49-52 quy định rõ
về lưu giữ chứng từ phục vụ công tác kiểm tra sau thông quan; các Điều 86 và 103 quy
định về cơ sở pháp lý tiến hành kiểm toán của công chức hải quan và các chế tài xử phạt
khi từ chối hay cản trở việc kiểm tra. Đến năm 1997 - 1998 kiểm tra sau thông quan
được triển khai áp dụng rộng rãi.
- Hải quan Thái Lan đó tiến hành áp dụng biện páhp kiểm tra sau thông quan vào
cuối những năm 90 của Thế kỷ XX. Ngay trong năm 1997 đó phát hiện 400 triệu bath,
năm 1998 phát hiện 832 triệu bath, chiếm 1/3 tổng số thuế xuất nhập khẩu và chiếm 2/3
tổng số tiền phạt thu được của Hải quan.
+ Đối với Hải quan Việt Nam: Trước khi Luật hải quan có hiệu lực thi hành vào
01/01/2002 thì nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan theo quy định tại Điều 10 Nghị định số
16/1999/NĐ-CP ngày 27/03/1999 quy định về thủ tục hải quan, giám sát và lệ phí hải
quan được gọi là kiểm tra sau giải phóng hàng. Những nội dung về kiểm tra sau giải
phóng hàng khi đõ chưa được quy định rõ nét, đầy đủ về cơ sở pháp lý, phương pháp
hoạt động; chưa hình thành bộ máy chuyên trách theo hệ thống.
Tiếp đó, Tổng cục Hải quan đã ban hành quy chế kiểm tra sau giải phóng hàng
theo Quyết định số 199/1999/QĐ-TCHQ ngày 05/06/1999, Điều 1 đã nêu: "Kiểm tra sau
giải phóng hàng là một khâu nghiệp vụ kiểm tra hải quan, do cơ quan Hải quan thực hiện
để thẩm định tính chính xác trung thực các nội dung đó khai báo và tính thuế của người
làm thủ tục hải quan đối với lô hàng xuất nhập khẩu đó được giải phóng nhằm thu đủ thuế
cho ngân sách nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức và cá
nhân liên quan".
Chỉ khi Luật Hải quan có hiệu lực, Hải quan Việt Nam mới chính thức triển khai
hoạt động nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan.
Như vậy, nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển, có thể thấy rằng, hoạt động
thực tiễn về KTSTQ tại Việt Nam vẫn còn là một khâu nghiệp vụ mới mẻ, không giống
như các công tác nghiệp vụ quen thuộc trước, nên đòi hỏi phải có sự nỗ lực, tập trung đầu
tư trên mọi phương diện (nhân lực, vật lực, chính sách pháp luật...) để thúc đẩy sự phát
triển và hoàn thiện công tác KTSTQ.
1.2. Khái niệm về kiểm tra sau thông quan
* Theo Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO)
"Kiểm tra sau thông quan là quy trình công tác cho phép viên chức Hải quan
kiểm tra tính chính xác của hoạt động khai hải quan bằng việc kiểm tra các hồ sơ, tài liệu
ghi chép về kế toán và thương mại liên quan đến hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá
và tất cả các số liệu, thông tin, bằng chứng khác cho cơ quan Hải quan mà hiện tại đang
được các đối tượng kiểm tra (cá nhân hay doanh nghiệp) trực tiếp hay gián tiếp tham
gia vào hoạt động buôn bán quốc tế nắm giữ".
Theo Công ước Kyoto sửa đổi, bổ sung tháng 9/1999:
Tại Phụ lục tổng quát, Chương 2, định nghĩa E3/F4) Công ước Kyoto có nêu:
"Kiểm tra trên cơ sở kiểm toán là các biện pháp được cơ quan Hải quan tiến hành nhằm
thoả mãn mục đích của họ trong việc xác định tính chính xác và trung thực của các tờ
khai hàng hoá thông qua kiểm tra các chứng từ, biên bản, hệ thống kinh tế và dữ liệu
thương mại của các bên liên quan".
* Theo Hải quan ASEAN:
Trong cuốn Sổ tay hướng dẫn về kiểm tra sau thông quan của Tổ chức Hải quan
ASEAN vừa được công bố tại cuộc họp Tổng cục trưởng Hải uan ASEAN tại Thái Lan
tháng 8/2003 và được sửa đổi bổ sung vào tháng 11/2005 đó nêu: "Kiểm tra sau thông
quan là một biện pháp kiểm soát hải quan có hệ thống mà cơ quan Hải quan thấy thoả
đáng về độ chính xác và trung thực của việc khai báo hải quan thông qua việc kiểm tra
sổ sách, hồ sơ có liên quan, hệ thống kinh doanh và dữ liệu thương mại của các cá nhân/
các công ty tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào thương mại quốc tế".
* Theo Hải quan Việt Nam:
Kiểm tra sau thông quan là hoạt động kiểm tra của cơ quan hải quan nhằm:
- Thẩm định tính chính xác, trung thực nội dung các chứng từ mà chủ hàng,
người được chủ hàng uỷ quyền, tổ chức, cá nhân trực tiếp xuất nhập khẩu, nhập khẩu đó
khai, nộp, xuất trình với cơ quan hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đó
được thông quan.
- Thẩm định việc tuân thủ pháp luật trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Khái niệm về kiểm tra sau thông quan của mỗi nước tuy có nêu theo nhiều cách
diễn đạt khác nhau, nhưng tính chung vẫn bao hàm 7 khía cạnh cơ bản về kiểm tra sau
thông quan:
Thứ nhất, là một quy trình nghiệp vụ của cơ quan hải quan (KTSTQ không phải
là một hệ thống độc lập mà là một chức năng của tổ chức hải quan); chia sẻ trách nhiệm
quản lý nhà nước về hải quan có hệ thống với các đơn vị chức năng khác của Hải quan.
Thứ hai, KTSTQ được tiến hành bởi các công chức hải quan.
Thứ ba, KTSTQ là phương pháp kiểm tra ngược thời gian diễn ra sau khi giải
phóng hàng.
Thứ tư, KTSTQ được tiến hành để xác định tính tuân thủ pháp luật của người
khai hải quan.
Thứ năm, KTSTQ chú trọng thực hiện các biện pháp kiểm tra theo tất cả các
thông tin liên quan, kể cả dữ liệu điện tử.
Thứ sáu, KTSTQ không chỉ hướng vào đối tượng khai báo mà cả các cá nhân,
công ty, tổ chức khác liên quan đến thương mại quốc tế.
Thứ bảy, KTSTQ được thực hiện với sự cộng tác chặt chẽ giữa cơ quan hải quan
và đối tượng kiểm tra.
1.3. Tính tất yếu khách quan của nghiệp vụ KTSTQ
Từ những năm trước đây trong quá trình nghiệp vụ Hải quan đã có một bộ phận
phụ trách công tác phúc tập hồ sơ hải quan sau khi hàng hoá đã làm xong thủ tục hải
quan, công tác hải quan ký, đóng dấu xác nhận thông quan trên tờ khai hải quan. Bộ phận
này (đội phúc tập hồ sơ tại các chi cục hải quan cửa khẩu) đảm nhận trách nhiệm kiểm tra
xem xét lại từng hồ sơ hải quan, phân loại hồ sơ để xử lý việc truy thu, truy hoàn thuế,
yêu cầu bổ sung giấy tờ, chứng từ thiếu, hoàn chỉnh các hồ sơ chưa đầy đủ, thanh khoản
hồ sơ và tổng hợp phân loại thành từng loại hình rồi đưa vào lưu trữ khi hồ sơ đã phúc
tập xong. Công tác này đơn giản, nhiều lúc, nhiều nơi không làm hay làm không đến nơi
đến chốn, không phát huy được tác dụng phòng ngừa vi phạm gian lận thương mại, có
nơi còn bị bỏ một thời gian dài, kém hiệu quả quản lý, năng lực cán bộ còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu công tác.
Cho đến nay, xuất phát từ yêu cầu ứng dụng phương pháp quản lý rủi ro trong
kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu quy định tại Luật hải quan (sửa đổi bổ sung) (các Điều
15, 28, 29, 30, 32); từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hải quan. Sự cần thiết tăng
cường công tác KTSTQ càng được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết.
Tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ KTSTQ còn do yêu cầu hội nhập quốc tế
và phát triển thương mại, trong khi đó, khả năng kiểm soát của Hải quan có hạn cả về
nhân lực, vật lực, nhận thức tư tưởng.
Yêu cầu thực hiện các điều ước, cam kết quốc tế của Nhà nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam và Hải quan Việt Nam với các nước trong khu vực và các tổ chức trên thế giới:
WCO, WTO, ASEAN, APEC...
Yêu cầu tiếp cận kỹ thuật nghiệp vụ tiên tiến về hải quan. Cụ thể là việc áp dụng
phương pháp kiểm tra xác suất, trọng điểm trên cơ sở phân tích tổng hợp các yếu tố có
liên quan đến giao dịch, chu chuyển hàng hoá thương mại, hạn chế các biện pháp và lưu
lượng phải kiểm tra trong quá trình thông quan, thực hiện nguyên tắc "giảm tiền kiểm"
mà "tăng hậu kiểm". Nhưng hậu kiểm không tràn lan mà kiểm tra theo trọng tâm, trọng
điểm, có hiệu quả. Phương pháp này sẽ thực sự hiệu quả khi công tác KTSTQ phải được
đồng hành chú trọng phát triển.
Tính tất yếu khách quan của công tác KTSTQ một mặt khẳng định vai trò, vị thế
và xu hướng phát triển của nó đồng thời chỉ ra những nhiệm vụ, thách thức không nhỏ
đối với công tác KTSTQ để đáp ứng được các nhiệm vụ yêu cầu quản lý ngày càng cao.
Hải quan các nước nói chung và Hải quan Việt Nam nói riêng, tùy vào điều kiện hoàn
cảnh của mình trên tinh thần tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm tiên tiến của các nước để định
hướng phát triển, từng bước hoàn thiện công tác KTSTQ sao cho vừa phù hợp với điều
kiện riêng (điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể) vừa tương
đồng với xu hướng phát triển chung của hải quan các nước.
Thiết nghĩ rằng, việc tổng kết, rà soát, đánh giá thực trạng công tác KTSTQ, để
rồi trên cơ sở đó ghi nhận những thành quả đã đạt được, chỉ ra những hạn chế, bất cập,
vướng mắc, khó khăn, đồng thời xác định phương hướng, tìm ra các giải pháp nhằm khắc
phục những hạn chế và tăng cường hiệu lực hiệu quả cho khâu nghiệp vụ này là việc làm
thiết thực trong giai đoạn hiện tại của Hải quan Việt Nam.
2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KTSTQ
2.1. Hệ thống quy định pháp luật có liên quan đến KTSTQ
* Hệ thống văn bản:
Luật SĐBS một số điều của Luật hải quan có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2006 đã có những thay đổi căn bản trong công tác quản lý nhà nước về hải quan
nói chung và công tác KTSTQ nói riêng. Đứng trước yêu cầu cải cách và hội nhập quốc
tế, cũng như để đáp ứng được yêu cầu do Luật Hải quan đặt ra, Tổng cục Hải quan đã
tham mưu trình Bộ Tài chính và Chính phủ ban hành hệ thống các VBQPPL quy định về
KTSTQ và có liên quan đến công tác KTSTQ (phụ lục
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Thực trạng công tác kế toán tại công ty cổ phần xây dựng và đầu tư 492 Luận văn Kinh tế 0
D Thực trạng công tác quản lý môi trường tại khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh thành phố Thái Bình Nông Lâm Thủy sản 0
D Thực trạng công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại FSI Luận văn Kinh tế 0
D Thực trạng quan hệ công chúng của Unilever đối với bột giặt OMO Marketing 0
D Đánh giá thực trạng công tác giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất trên địa bàn quận Hoàng Mai Văn hóa, Xã hội 0
D Thực trạng quản trị kho hàng tại công ty cổ phần acecook việt nam Luận văn Kinh tế 0
D THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VĂN THƯ, LƯU TRỮ CỦA BAN DÂN VẬN TỈNH ỦY THÀNH PHỐ CAO BẰNG Văn hóa, Xã hội 0
D Thực trạng và một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học cho lao động quản lý tại Công ty cơ khí 79 Văn hóa, Xã hội 0
D Thực trạng công tác phòng chống dịch bệnh covid19 của người dân tại phường nhật tân quận tây hồ - Hà Nội Y dược 1
D thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác soạn thảo và ban hành văn bản tại Trường mầm non xã Kim Sơn – Huyện Lục Ngạn Luận văn Sư phạm 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top