qht_148

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 1
1, Khái Niệm chung 1
2, Cơ sở lý luận 2
3, Cơn sở thực tiễn . 3
II. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI; HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 4
III. THỰC TRẠNG, GHÉP MÔ, BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI HOẶC HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 8
1, Vai trò và ỹ nghĩa của việc thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết. 9
2, Thực trạng của việc thực hiện quyền hiến bộ phận cơ thể người hay hiến xác sau khi chết. 10
III. NHỮNG BIỆN PHÁP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN HIENS BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 13
1. Những biện pháp thực hiện có hiểu quả quyền hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết. 13
2, Hướng hoàn thiện về pháp luật về hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết. 15
KẾT LUẬN 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21

LỜI MỞ ĐẦU

Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội thông qua là kêt quả là kết quả cuả quá trình phát triển điểm háo pháp luật về dân sự, đáp ứng nhu cấu bức xúc cuả xã hội của quản lý Nhà nước trong tình hình phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Là bộ luật lớn của nước ta, có phạm vi rông lớn và điều chỉnh nhiều mối quan hện xã hội. Bộ luật dân sự là đối tượng nghiên cứu quan trọng của nghành luật học, đòi hỏi nhiều công sứ của các nhà nghiên cứu khoa học luật.
Việc nghiên cứu các chế định pháp lý trong Bộ luật dân sự là một viêc làm cần thiết trong quá trình nâng cao dân trí pháp luật của nhân dân, củ thể là nâng cao sự hiểu biết, nhận thức đúng đắn những vấn đề
NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT.

1, Khái Niệm chung
Thế nào là bộ phận cơ thể người theo TS Phùng Trung Tập xét về mặt sinh học: “ Bộ phận cơ thể người là những thành tố cấu thành sự thống nhất của một cơ thể sống hoàn chỉnh và nó thực hiện được chức năng trao đổi chất giúp cho cơ thể tồn tại và phát triển bình thường theo quy luật của tự nhiên”.
Có quan niệm khác lại định nghĩa theo cách liệt kê đối tượng, hộ cho rằng: “ Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể như mắt, tay, chân, gan, thận, tim hay phần khác của cơ thể” đây là hai cách hiểu khác nhau.
Hai loại định nghĩa này đều làm nổi bật lên thế nào là bộ phận cơ thể người, nhưng việc đưa định nghĩa nào vào trong luật thì các nhà làm luật phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng.

2, Cơ sở lý luận

Con người sinh ra đã có quyền sống, quyền tự do…đó là quyền con người khi họ sống trong một Nhà nước nhất định thì quyền con người của họ luôn được đảm bảo thừa nhận và quyền hiến bộ phận cơ thể người , hiến xác sau khi chết cũng là một bộ phận quyền con người. Do đó, lẽ tất nhiên nó cũng được Nhà nước thùa nhận và bảo vệ.
Con người có quyền quyết định những gì thuộc về mình như quyền nhân thân, con người có quyền bảo vệ tên tuổi, danh dự, nhân phẩm, giữ gìn sức khỏe…bộ phận cơ thể người, đối với xác sau khi chết, nó cũng là một bộ phận của quyền nhân thâ. Do đó, con người cũng có quyền được hiến, nhận bộ phận cơ thể người sau khi chết.
Về mặt sinh học con người là một thể thống nhất gồm nhiều bộ phận hợp lại để hoạt động các bộ phận đấy, các cơ quan đấy phải thực hiện quá trình trao đổi chất. Tuy nhiên không phải ai sinh ra các bộ phận cơ thể cũng hoàn thiện mà có những người họ bị khuyết thiếu một bộ phận nào đó hay có người sinh ra họ phat triển binh thường nhưng vì một lý do nào đó họ phải cắt bỏ một phần cơ thể của mình và bộ phận cơ thể đó có thể cần cho mục đích nghiên cứu khoa học. Mặt khác trên thực tế có những người do tai nạn hay vì tình thương vì sự nhân đạo họ tự nguyện hiến bộ phận cơ thể mình cho nhười khác hay họ cũng có thể tự nguyện hiến xác, hiến bộ phận cơ thể mình sau khi chết để cứu chữa bệnh cho người khác hay nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu khoa học.
Về mặt pháp lý Quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người đã được quy đinh trong Hiến Pháp 1992 và Bộ luậ Dân sự 1995 và lần đầu tiên Quyền hiến bộ phận cơ thể người; hiến xác sau khi chết được thừa nhận và quy định ở Điều 33 Quyền hiến bộ phận cơ thể; Điều 34 Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; Điều 35 Quyền nhận bộ phận cơ thể người.

3, Cơn sở thực tiễn .

Thực tế cuộc sống cho thấy nhiều trường hợp con người do tai nạn, do sự kiện bất ngờ dấn đến nhiều trường hợp chết lâm sàn hay chết thực sự. Tuy nhiên một số bộ phận cơ thể của họ vẫn còn sống và vẫn có thể dùng để cứu chữa người bệnh hay dùng để nghiên cứu khoa học.
Thực tế cũng cho thấy rất nhiều người còn sống họ cũng tình nguyện hiến các bộ phận cơ thể của mình để cứu người bệnh trong cơn nguy kịch. Ở nước ta thì việc cha, mẹ hiến để chữa trị cho con cái hay những người thân thích với nhau là không hiếm…Nhưng nếu có quy định pháp lụt về vẫn đề này thì số người hiến sẽ không dùng lại ở phạm vi hẹp như trên mà có nhiều người hiến hơn nữa và đương nhiên là có nhiều người bệnh được cứu sống Bên cạnh có một số người muốn sau khi mình chết đi thi thể cuả họ sẽ không bị chôn vùi một cách vô ích lãng quyên cùng với cát bụi mà họ muốn hiến cho các trung tâm nghiên cứu y học hay cho người bệnh nhằm mục đích chữa bệnh hay nghiên cứu khoa học.
Cùng với sụ phát triển kinh tế là mặt trái của nó, môi trường ôi nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, bệnh tật ngày càng phát sinh nhiều và ngày càng nguy hiểm như bệnh viêm gan A, viêm gan B, teo thận, tim mạch…do đó nhu cầu về ghép nộ tạng ngày càng tăng cao trong khi đó người hiến tạng lại không nhiều.
Hơn nữa ở nước ta, những người chết vì rủi ro, bão lũ, tai nạn giao thông hàng năm là rất lớn trung bình mỗi tháng là 1000 người chết. Đó là một điều không may nhưng một người có thể cứu được ít nhất 7 người.
Tại Hà Nội cũng có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng do không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm tới tính mạng. Còn về nhu cầu mô, chúng ta có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ được ghép giác mạc.
Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc từ 500 ca/năm trở lên nhưng từ năm 1985 đến nay mới chỉ ghép được 1.500 ca. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các Tổ chức phi chính phủ (khoảng 50 - 100 giác mạc/năm) mà không có nguồn của người cho giác mạc.
Trên thế giới một số nước như Pháp, Mỹ… đã cho phép hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết và đã đem lại hiểu quả rất ấn tượng, mỗi người bệnh sau khi được ghép thận, gan, có khả năng sống cao hơn, lâu dài hơn và chi phí ít tốn kém hơn so với chạy thận nhân tạo…
Từ những lý luận cũng như thực tiễn cho thấy việc quy định Quyền hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết là haonf toàn đúng đắn và hợp lý trong bối cảnh đất nước ta hiện nay.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI; HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT.

Bộ luật Dân sự 2005 đã đề cập đến một vấn đề hoàn toàn mối mà từ khi lập pháp đế nay ổ nước ta vấn chưa dề cập tới. Đố là lần đầu tiên trong Bộ luật Dân sự 2005 quy định Quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết, trong đó đã đề cập đến hai vấn đề đó là Quyền hiến bộ phận cơ thể ngươi khi còn sống được quy định ở Điều 33 va hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết được quy đinh tại Điều 34 ngoài ra để đảm bảo việc thực hiện quyền nàu có hiểu quả trong Bộ luật này cũng quy định quyền nhân bộ phận cơ thể người được quy định ở Điều 35.
Tại Điều 33 Bộ luật Dân sự 2005: “ cá nhân được quyền hiến bộ phận cơ thể của mình cho người khác vì mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học. Việc hiến bộ phận cơ thể người được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Đặc biệt việc thừa nhận Quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ thể của cá nhân khi cá nhân đó chết đi được quy định tại Điều 34 của Bộ luật dân sự 2005: “ Cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hay hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh hay nghiên cứu khoa học.
Việc sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Qua đó ta thấy ở đây pháp luật cũng chỉ quy định rấ khái quát, chung chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, hiến bộ phân cơ thể sau khi chết chứ không quy đinh củ thể về vấn đề điều kiện về đổ tuổi, sức khỏe đối với người hiến…Tuy nhiên trong bộ luật cũng quy định việc sử dụng xác, bộ phận cơ thể người thực hiện theo quy định của pháp luật do đó ta dán tiếp hiểu rằng vấn đề điều kiện về đổ tuổi, sức khỏe … sẽ được quy định trong một văn bản khác. Tuy vậy chúng ta cũng biết được rằng thực tế nếu không có những quy định về những vấn đề củ thể này thì việc thừa nhận quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết có lẽ chỉ mang tính danh nghĩa mà khó có thể sử dụng được.
Tuy vậy khi thừa nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người thì nó sẽ đáp ứng được nhu cầu phục vụ cho quá trình giảng dạy có hiệu quả trong các trươngg Đại Học, các trung tâm nghiên cứu y học. Bên cạnh quy định về quyền được hiến bộ phận cơ thể người , nhiến xác sau khi chết. Bộ luật Dân sự 2005 còn quy định về quyền được nhận bộ phận cơ thể người Điều 35 quy định: “ Cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình. Nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể người khác vì mục đích thương mại”.
Đây là quy định phù hợp vì đương nhiên đã có quy định cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể thì luật cũng phải quy định cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể người. Nhưng ta thấy vấn đề này Bộ luật Dân sự cũng quy định chung chung nên rất khó thực hiện trên thực tế bởi vì sễ dẫn đến hiểu không thống nhất cá nhân có quyền nhận ở đây, phải chăng là bất cứ ai, ở bất kỳ đổ tuổi nào cũng được hay cá nhân phải ở đổ tuổi nhất định , không bị mất năng lực hành vi dân sự những vấn đề này luật chưa quy định.
Trong Điều 35 luật cũng nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể người vì mực đích thương mại. Nhà lập pháp nước ta cũng như một số nước như: Pháp, Đức..họ không coi bộ phận cơ thể người là hàng hóa do đó không được trao dổi mua bán trên thị trường. Bện cạnh đó có một số quan điểm khác cho rằng nên thừa nhận việc hiến mô tạng vì mục đích thương mại vì họ cho rằng đó là quyền của mỗi cá nhân khi họ cho đi một bộ phận cơ thể, họ có quyền nhận lại một lợi ích vật chất nhất định đó là quền hoàn toàn chính đáng và bảo đảm người mua, kẻ bán, người trung gian đều có lợi trong vấn đề này. Mặt khác nhu cầu ghép bộ phận cơ thể trên thực sự là rất lớn, nhiều người sẵn sàng bổ tiền ra để có được thứ mình cần.
Bên cạnh hai quan niệm đó thì có quan niệm dung hòa hơn là họ cho rằng nên thừa nhận việc hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết vì mục đích thương mại nhưng trong một giới hạn nhất định, trong trường hợp nhất định.
Quyền hiến xác: do cá nhân quyết định
Trong báo cáo giải trình, tiếp thu của Ủy ban thường vụ (UBTV) QH, ông Vũ Đức Khiển (chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật) cho biết xung quanh nội dung quyền hiến xác, có ý kiến ĐB QH đề nghị bổ sung qui định hộ gia đình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của người thân sau khi chết.
Một số ý kiến khác lại muốn việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể phải có sự đồng ý hay không có sự phản đối của cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên của người đã chết. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc, UBTVQH cho rằng đây là một quyền nhân thân của cá nhân, do cá nhân tự quyết định. Mặt khác, vấn đề này còn tương đối mới, thực tiễn phát sinh chưa nhiều, do vậy Bộ luật dân sự chỉ nên dừng ở những qui định mang tính nguyên tắc.


ảnh h¬ưởng đến sức khoẻ của ngư¬ời hiến. Ng¬ười hiến tế bào càng nên đư¬ợc h-ưởng quyền lợi khi Nhà nước ta đang cố gắng khuyến khích nhiều ng¬ười hiến để tạo nguồn mô, tế bào, bộ phận cơ thể cứu chữa ngư¬ời bệnh và phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy.
- Cần sớm có quy định về trình tự, thủ tục đối với việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng như¬ điều kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể ng¬ười để nghiên cứu khoa học.
- Về độ tuổi của ngư¬ời hiến mô, bộ phận cơ thể ngư¬ời còn sống, chúng tui đồng ý với Điều 5 của Luật là từ đủ 18 tuổi trở lên mới đ¬ược hiến mô, bộ phận cơ thể. Tuy nhiên, đối với trường hợp ng¬ười chết mà không có thẻ đăng ký hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 22), thì Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở lên, mà ngư¬ời dư¬ới 18 tuổi cũng có thể đ-ược chấp nhận nếu đ¬ược gia đình hay ngư¬ời giám hộ hợp pháp của họ đồng ý. Bởi lẽ, mô, bộ phận cơ thể của người dưới 18 tuổi vẫn có thể dùng để cấy, ghép cho người bệnh được và khi những người thân thích của người chết muốn hiến thì không có lý do gì mà cơ sở y tế lại không được nhận. Mặt khác, việc hiến bộ phận cơ thể, hiến xác ngoài việc phục vụ chữa bệnh còn nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy.
- Về thẩm quyền xác định chết não, theo chúng tôi, Luật không cần thiết phải bắt buộc phải có sự tham gia của giám định pháp y trong việc xác định chết não vì thực tế cho thấy ở nư¬ớc ta, số l¬ượng chuyên gia pháp y là không nhiều, đặc biệt là ở một số bệnh viện, cơ sở y tế trung bình. Nếu quy định như¬ điểm c, khoản 2, Điều 27 của Luật sẽ có nhiều trư¬ờng hợp phải chờ sự có mặt của các chuyên gia pháp y. Do đó, sẽ kéo dài thời gian vàng cho phép lấy những bộ phận tạng đư¬ợc hiến ở điều kiện tốt nhất, chỉ bảo quản đư¬ợc trong thời gian ngắn. Ví dụ như tim chỉ được ghép tối ưu nhất trong vòng 24h kể từ khi lấy ra khỏi lồng ngực của người hiến, còn thận thì tuy bảo quản để ghép được có dài thời gian hơn, nhưng cũng không quá 72h. Việc xác định chết não nên giao cho một hội đồng độc lập gồm các chuyên gia thuộc chuyên khoa hồi sức, hồi sức tích cực nội – ngoại thần kinh đánh giá dựa trên dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng của khoa học kỹ thuật y học hiện đại. Sau khi hội đồng có kết luận thống nhất thì thủ tr¬ưởng sẽ ra quyết định cuối cùng.
- Luật nên nêu rõ chế tài áp dụng với từng hành vi cụ thể hay bổ sung vào Bộ luật Hình sự những điều khoản để xử lý loại tội phạm liên quan đến các hành vi bị cấm tại Điều 11.
- Về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ngư¬ời sống; thủ tục đăng ký hiến bộ phận cơ thể ng¬ười hiến xác sau khi chết ở khoản 4 Điều 12 cũng nh¬ư khoản 4, Điều 18 của Luật có nêu: trách nhiệm của cơ sở y tế là trực tiếp gặp ngư¬ời hiến để tư¬ vấn về các thông tin có liên quan là không khả thi. Bởi quy định này dẫn đến tr¬ường hợp ng¬ười dân sẽ hiểu rằng: các cơ sở y tế phải có trách nhiệm cử cán bộ tới nhà gặp trực tiếp ngư¬ời hiến để tư¬ vấn mà cơ sở y tế thì không đủ ngư¬ời để có thể làm đ¬ược điều đó. Vì vậy, đề nghị sửa đổi khoản 4, Điều 12, Điều 18 theo hư¬ớng sau: “Cơ sở y tế có trách nhiệm mời ng¬ười hiến đến cơ sở y tế để trực tiếp cung cấp đầy đủ các thông tin có liên quan cho ngư¬ời hiến biết”.
- Mặt khác, điểm a, khoản 2, Điều17 của Luật cần làm rõ hơn về quy định khám sức khoẻ định kỳ bởi quy định này quá chung chung và khó thực hiện trên thực tiễn. Ví dụ: nếu có bệnh liên quan đến việc hiến mô, bộ phận cơ thể ng¬ười như¬ suy quả thận còn lại sau khi đã hiến đi một quả thì có đư¬ợc miễn phí trong việc điều trị hay không? Nếu phải chạy thận nhân tạo hay thay thận thì giải quyết nh¬ư thế nào. Do đó, đề nghị sửa điểm a, Khoản 2, Điều 17 của Luật hay quy định giải thích ở một văn bản d¬ưới luật nh¬ư sau: “Đư¬ợc chăm sóc, phục hồi sức khoẻ miễn phí ngay sau khi hiến bộ phận cơ thể tại cơ sở y tế, đ¬ược khám định kỳ miễn phí và đ¬ược điều trị miễn phí với những bệnh lý trực tiếp hay gián tiếp gây ra từ việc hiến mô, bộ, phận cơ thể ng¬ười”. Việc này phải đ¬ược thực hiện một cách nghiêm túc trên thực tiễn, bởi nếu thực hiện không tốt nó sẽ tác động xấu đến những ngư¬ời đang có ý định hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống để cứu chữa ngư¬ời bệnh và góp phần đảm bảo quyền lợi cho ngư¬ời hiến. Nó cũng thể hiện đ¬ược sự quan tâm cũng như¬ chính sách của Nhà nư¬ớc là tôn vinh những ng¬ười hiến.
- Về quyền lợi của ng¬ười hiến xác, hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 25): như¬ đã nói, một ng¬ười chết đi thì nỗi đau tinh thần th¬ường thuộc về những ng¬ười còn sống mà trực tiếp là gia đình ngư¬ời hiến xác, hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết. Những ngư¬ời thân thích đó đóng vai trò rất quan trọng trong việc ng¬ười thân của mình có thể hiến xác, hiến mô, bộ phận cơ thể ngư¬ời. Gia đình ngư¬ời hiến cũng đáng đư¬ợc tôn vinh về mặt tinh thần để động viên họ. Do vậy, Điều 25 của Luật nên sửa đổi như¬ sau: “Bản thân ng¬ười hiến và gia đình ng¬ười đã hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết đ¬ược Bộ y tế truy tặng đối với bản thân và tặng đối với gia đình Kỷ niệm ch¬ương Vì sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ nhân dân”.
- Về điều kiện đối với việc lấy xác ng¬ười không có địa chỉ cư¬ trú cuối cùng (Điểm 6, K1, Điều 22), theo chúng tôi, đây là vấn đề rất nhạy cảm và không hề đơn giản. Chúng ta cần có sự phân biệt giữa tử thi vô thừa nhận và tử thi ch¬ưa xác định được người thân thích. Nếu trường hợp là tử thi vô thừa nhận không có ng¬ười thân thích thì cần thời gian l¬ưu xác để xác định chính xác điều đó trư¬ớc khi lấy mô, bộ phận cơ thể hay lấy xác của họ. Còn nếu trường hợp tử thi mà chư¬a xác định đ¬ợc ngư¬ời thân thích là ai thì theo quan điểm của TS. Phùng Trung Tập, Uỷ ban nhân dân xã nơi ng¬ười đó chết không có quyền đ¬ược hiến cho cơ sở y tế, vì nó có thể dẫn đến nhiều sự phức tạp như sự lạm dụng, che giấu tội phạm, thậm chí là mua bán mô tạng bất hợp pháp…, do đó, cơ quan có thẩm quyền rất khó kiểm soát tình hình. Chúng tui cũng đồng ý với quan điểm này.
- Về vấn đề tử tù tự nguyện hiến, thì theo chúng tôi, vẫn đ¬ược chấp nhận nếu ngư¬ời hiến đó đạt đủ điều kiện về độ tuổi từ 18 tuổi trở nên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Điều này cũng phù hợp với tinh thần chung của Luật. Mặt khác, quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết nó không chỉ là quyền công dân mà nó còn là một bộ phận của quyền con ng-ười.
- Điểm b, khoản 1, Điều 24 của Luật quy định cơ sở y tế phối hợp với gia đình ng¬ười hiến để tổ chức lễ truy điệu. Thực tế cho thấy, nhiều trư¬ờng hợp gia đình có ng¬ười hiến ở xa, ph¬ương tiện đi lại rất khó khăn khi cơ sở y tế đến tiếp nhận thì gia đình đã tổ chức Lễ truy điệu hay đã thực hiện các nghi thức theo phong tục tập quán địa phư¬ơng. Do đó, nên chăng chỉ cần quy định cơ sở y tế, cơ sở nghiên cứu, đào tạo y học có trách nhiệm đến viếng, đọc th¬ư tri ân tr¬ước khi tiếp nhận di hài sẽ hợp lý hơn.
- Về điều kiện đối với ngư¬ời đư¬ợc ghép mô, bộ phận cơ thể ng¬ười, theo chúng tôi, khoản 1, Điều 30 của Luật không nên quy định chung chung về ngư¬ời có quyền chỉ định ghép mà nên xác định cụ thể ng¬ười có quyền chỉ định ghép là ngư¬ời đứng đầu cơ sở y tế có thẩm quyền, trừ tr¬ường hợp pháp luật có quy định khác. Như¬ vậy sẽ đảm bảo đ¬ược sự nhanh nhạy trong việc quyết định cấy, ghép, mặt khác nó còn đảm bảo tính trách nhiệm với từng ngư¬ời cụ thể.
- Về chế độ bảo hiểm y tế và viện phí đối với ngư¬ời ghép: Vì quan hệ cấy, ghép mô là quan hệ dân sự nên chi phí cho cấy, ghép mô, bộ phận cơ thể ngư¬ời là do ng¬ười đư¬ợc cấy, ghép phải trả. Chi phí cho việc cấy, ghép rất lớn nên nó cần đ¬ược sự hỗ trợ từ cơ quan bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu quy định như¬ trong Luật thì vấn đề này sẽ rất khó đ¬ược giải quyết triệt
để vì thực tế, Quỹ bảo hiểm y tế hiện không đủ nguồn để đáp ứng cho nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân và có nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm. Do đó, để giảm gánh nặng cho Nhà nước, chúng ta nên ban hành văn bản pháp luật cho phép các loại hình bảo hiểm mới chuyên về lĩnh vực này hoạt động, dựa trên cơ sở liên doanh với n¬ước ngoài hay 100% vốn n¬ước ngoài để phục vụ chăm sóc, phục hồi sức khoẻ cho ng¬ười ghép.
- Về sức khoẻ ngư¬ời hiến mô, bộ phận cơ thể cần không mắc bệnh nan y như¬ viêm gan B, nhiễm HIV… còn một ng¬ười bị hỏng một bộ phận cơ thể do nhiễm bệnh hay do nguyên nhân khác họ vẫn có thể hiến bộ phận cơ thể đó của họ như¬ng không phải vì mục đích chữa bệnh mà là mục đích nghiên cứu khoa học hay giảng dạy.

KẾT LUẬN

Thực tế hiện nay đã cho thấy vẫn đề cấp thiết của nền y học trong việc hiến xác bộ phận cơ thể người sau khi chết. Chính vì vậy, để đạt hiểu quả cao hơn nữa và thực hiện có ỹ nghĩa vấn đề này cần được đem ra bàn bạc và có nhiều hướng gải quyết hơn nữa.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

kate123

New Member
Download Tiểu luận Những quy định về quyền hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết, thực trạng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

Download miễn phí Tiểu luận Những quy định về quyền hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết, thực trạng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này





MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 1
1, Khái Niệm chung 1
2, Cơ sở lý luận 2
3, Cơn sở thực tiễn . 3
II. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI; HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 4
III. THỰC TRẠNG, GHÉP MÔ, BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI HOẶC HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 8
1, Vai trò và ỹ nghĩa của việc thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết. 9
2, Thực trạng của việc thực hiện quyền hiến bộ phận cơ thể người hay hiến xác sau khi chết. 10
III. NHỮNG BIỆN PHÁP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN HIENS BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 13
1. Những biện pháp thực hiện có hiểu quả quyền hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết. 13
2, Hướng hoàn thiện về pháp luật về hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết. 15
KẾT LUẬN 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

y càng phát sinh nhiều và ngày càng nguy hiểm như bệnh viêm gan A, viêm gan B, teo thận, tim mạch…do đó nhu cầu về ghép nộ tạng ngày càng tăng cao trong khi đó người hiến tạng lại không nhiều.
Hơn nữa ở nước ta, những người chết vì rủi ro, bão lũ, tai nạn giao thông hàng năm là rất lớn trung bình mỗi tháng là 1000 người chết. Đó là một điều không may nhưng một người có thể cứu được ít nhất 7 người.
Tại Hà Nội cũng có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng do không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm tới tính mạng. Còn về nhu cầu mô, chúng ta có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ được ghép giác mạc.
Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc từ 500 ca/năm trở lên nhưng từ năm 1985 đến nay mới chỉ ghép được 1.500 ca. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các Tổ chức phi chính phủ (khoảng 50 - 100 giác mạc/năm) mà không có nguồn của người cho giác mạc.
Trên thế giới một số nước như Pháp, Mỹ… đã cho phép hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết và đã đem lại hiểu quả rất ấn tượng, mỗi người bệnh sau khi được ghép thận, gan, có khả năng sống cao hơn, lâu dài hơn và chi phí ít tốn kém hơn so với chạy thận nhân tạo…
Từ những lý luận cũng như thực tiễn cho thấy việc quy định Quyền hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết là haonf toàn đúng đắn và hợp lý trong bối cảnh đất nước ta hiện nay.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI; HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT.
Bộ luật Dân sự 2005 đã đề cập đến một vấn đề hoàn toàn mối mà từ khi lập pháp đế nay ổ nước ta vấn chưa dề cập tới. Đố là lần đầu tiên trong Bộ luật Dân sự 2005 quy định Quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết, trong đó đã đề cập đến hai vấn đề đó là Quyền hiến bộ phận cơ thể ngươi khi còn sống được quy định ở Điều 33 va hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết được quy đinh tại Điều 34 ngoài ra để đảm bảo việc thực hiện quyền nàu có hiểu quả trong Bộ luật này cũng quy định quyền nhân bộ phận cơ thể người được quy định ở Điều 35.
Tại Điều 33 Bộ luật Dân sự 2005: “ cá nhân được quyền hiến bộ phận cơ thể của mình cho người khác vì mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học. Việc hiến bộ phận cơ thể người được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Đặc biệt việc thừa nhận Quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ thể của cá nhân khi cá nhân đó chết đi được quy định tại Điều 34 của Bộ luật dân sự 2005: “ Cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hay hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh hay nghiên cứu khoa học.
Việc sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Qua đó ta thấy ở đây pháp luật cũng chỉ quy định rấ khái quát, chung chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, hiến bộ phân cơ thể sau khi chết chứ không quy đinh củ thể về vấn đề điều kiện về đổ tuổi, sức khỏe đối với người hiến…Tuy nhiên trong bộ luật cũng quy định việc sử dụng xác, bộ phận cơ thể người thực hiện theo quy định của pháp luật do đó ta dán tiếp hiểu rằng vấn đề điều kiện về đổ tuổi, sức khỏe … sẽ được quy định trong một văn bản khác. Tuy vậy chúng ta cũng biết được rằng thực tế nếu không có những quy định về những vấn đề củ thể này thì việc thừa nhận quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết có lẽ chỉ mang tính danh nghĩa mà khó có thể sử dụng được.
Tuy vậy khi thừa nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người thì nó sẽ đáp ứng được nhu cầu phục vụ cho quá trình giảng dạy có hiệu quả trong các trươngg Đại Học, các trung tâm nghiên cứu y học. Bên cạnh quy định về quyền được hiến bộ phận cơ thể người , nhiến xác sau khi chết. Bộ luật Dân sự 2005 còn quy định về quyền được nhận bộ phận cơ thể người Điều 35 quy định: “ Cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình. Nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể người khác vì mục đích thương mại”.
Đây là quy định phù hợp vì đương nhiên đã có quy định cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể thì luật cũng phải quy định cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể người. Nhưng ta thấy vấn đề này Bộ luật Dân sự cũng quy định chung chung nên rất khó thực hiện trên thực tế bởi vì sễ dẫn đến hiểu không thống nhất cá nhân có quyền nhận ở đây, phải chăng là bất cứ ai, ở bất kỳ đổ tuổi nào cũng được hay cá nhân phải ở đổ tuổi nhất định , không bị mất năng lực hành vi dân sự những vấn đề này luật chưa quy định.
Trong Điều 35 luật cũng nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể người vì mực đích thương mại. Nhà lập pháp nước ta cũng như một số nước như: Pháp, Đức..họ không coi bộ phận cơ thể người là hàng hóa do đó không được trao dổi mua bán trên thị trường. Bện cạnh đó có một số quan điểm khác cho rằng nên thừa nhận việc hiến mô tạng vì mục đích thương mại vì họ cho rằng đó là quyền của mỗi cá nhân khi họ cho đi một bộ phận cơ thể, họ có quyền nhận lại một lợi ích vật chất nhất định đó là quền hoàn toàn chính đáng và bảo đảm người mua, kẻ bán, người trung gian đều có lợi trong vấn đề này. Mặt khác nhu cầu ghép bộ phận cơ thể trên thực sự là rất lớn, nhiều người sẵn sàng bổ tiền ra để có được thứ mình cần.
Bên cạnh hai quan niệm đó thì có quan niệm dung hòa hơn là họ cho rằng nên thừa nhận việc hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết vì mục đích thương mại nhưng trong một giới hạn nhất định, trong trường hợp nhất định.
Quyền hiến xác: do cá nhân quyết định
Trong báo cáo giải trình, tiếp thu của Ủy ban thường vụ (UBTV) QH, ông Vũ Đức Khiển (chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật) cho biết xung quanh nội dung quyền hiến xác, có ý kiến ĐB QH đề nghị bổ sung qui định hộ gia đình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của người thân sau khi chết.
Một số ý kiến khác lại muốn việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể phải có sự đồng ý hay không có sự phản đối của cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên của người đã chết. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc, UBTVQH cho rằng đây là một quyền nhân thân của cá nhân, do cá nhân tự quyết định. Mặt khác, vấn đề này còn tương đối mới, thực tiễn phát sinh chưa nhiều, do vậy Bộ luật dân sự chỉ nên dừng ở những qui định mang tính nguyên tắc.
Ngay sau khi Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006. Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch số 21 ngày 12/1/2007 về việc Triển khai thi hành Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác với mục đích xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết và phổ biến kịp thời, đầy đủ nội dung của Luật đến tất cả các tầng lớp nhân dân cũng như đối với đội ngũ cán bộ ngành y tế. Đồng thời, tiến hành xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một s
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Những quy định của luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại thực tiễn áp dụng và những vấn đề đặt ra Luận văn Luật 0
D Các quy tắc xuất xứ trong hiệp định EVFTA và những điều cần lưu ý, cơ chế cấp C/O mẫu EUR.1 và cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa Luận văn Kinh tế 0
D Quy chế pháp lý của đảo theo quy định của công ước luật biển năm 1982 và những vấn đề đặt ra đối với Luận văn Luật 0
D Bằng những quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016, hãy chứng minh thuế nhập khẩu Luận văn Kinh tế 0
B Những quy định pháp lý về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo Luận văn Kinh tế 0
D Thẩm quyền của trọng tài thương mại và những quy định về sự hỗ trợ của Toà án đối với hoạt động của Luận văn Luật 0
D Phân tích những quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụn Luận văn Kinh tế 0
D Những quy định hiện hành và việc thực hiện chính sách, chế độ đối với công chức văn thư, lưu trữ tro Văn hóa, Xã hội 0
T Tổng hợp Đề thi: Những quy định chung về luật dân sự Việt Nam Luận văn Luật 0
P Một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ về hàng hoá nhập khẩu : những bài học thực tiễn đặt ra cho Việt Luận văn Luật 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top