phananhvtc

New Member

Download Tiểu luận Tư tưởng tộc quyền trong xã hội Việt Nam truyền thống và những hệ lụy của nó miễn phí





Trong xã hội Việt Nam truyền thống, tác động tích cực của tư tưởng tộc quyền không nhiều. Dưới khía cạnh này, tư tưởng tộc quyền là cơ sở hình thành những trung tâm đoàn kết ở làng xã, gắn kết các thành viên của nó trên tinh thần hỗ trợ và nhân nhượng lẫn nhau, đảm bảo cho việc thực hiện các nghĩa vụ trước Nhà nước và làng xã được đầy đủ và nhanh chóng. Điều đáng lưu ý là chính tư tưởng tộc quyền, trong nhiều trường hợp đã dẫn đến xác lập sự nắm quyền một cách hết sức có hiệu quả qua nhiều đời của những dòng họ có năng lực quản lý thực sự. Ở vùng Nam Định cũ có câu “Hoành Nha họ Vũ, Trà Lũ họ Trần” là để chỉ đại loại hiện tượng này. Trong nhiều trường hợp khác, các dòng họ liên kết với nhau tự đứng ra quản lý có hiệu quả một số mặt của đời sống làng xã. Chẳng hạn như ở làng Trang Liệt (Tiên Sơn, Bắc Ninh), vào cuối thế kỷ XIX, có 10 dòng họ liên kết lại thành một Hội đồng, ra lời cam kết gọi là Thập tộc tân ước với 26 điều quy định về bảo vệ sản xuất và an ninh thôn xóm. Những hiện tượng nói trên đã phần nào gia tăng không khí “dân chủ” ở làng xã, hay góp phần nâng cao hiệu lực quản lý làng xã.
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

việc tổ chức quyền lực và quản lý xã hội của Nhà nước tại đơn vị lãnh thổ - dân cư đó.
2. Tình hình các làng xã cổ truyền của người Việt cũng có những nét tương tự. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy, làng xã cổ truyền Việt Nam tích chứa khá đậm nét hình ảnh và các mối quan hệ công xã, bao gồm cả quan hệ tông tộc gia trưởng phụ quyền. Làng Việt khởi thuỷ thường được lập nên bởi vài ba dòng họ, thậm chí mỗi làng chỉ có một dòng họ mà dấu tích của nó còn được lưu giữ đến mãi tận ngày nay (như Dương Xá tức làng của họ Dương, Lê Xá tức làng của họ Lê, hay Đỗ Xá, Đặng Xá, Bùi Xá, Đào Xá...). Từ giữa thế kỷ XV, với sự ổn định và phát triển của đất nước, sự chuyển cư của các dòng họ gia tăng, số dòng họ trong mỗi làng nhiều thêm. Cùng với đó, quá trình phong kiến hoá thiết chế công xã nông thôn cũng làm cho quan hệ giữa các dòng họ thêm phức tạp. Các dòng họ tồn tại và quan hệ với nhau theo các cặp đối lập: họ “đông đinh/ít đinh”, họ “khai làng, chính cư/ngụ cư” họ “khoa bảng/ít chữ”, họ “mạnh/yếu”... Vậy là trong làng xã Việt Nam, dòng họ tồn tại như những thực thể thống nhất, có cấu trúc riêng với một hệ thống điều chỉnh riêng biệt của mình, độc lập nhưng không đối lập với làng xã.
Trong sự tự nhận thức của cư dân các làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, tư tưởng tộc quyền thể hiện trước hết ở quan niệm đề cao vai trò và sức mạnh của dòng họ trong việc tập hợp và quản lý các thành viên cùng huyết thống.
Đối với người nông dân trong xã hội Việt Nam truyền thống, mối quan hệ dòng họ là mối quan hệ cơ bản nhất, bền chặt nhất, đáng tin cậy nhất mà trong cuộc sống thiếu thốn và đầy bất trắc của xã hội, mỗi người phải nương tựa vào, bám víu lấy. Với dòng họ, người ta không cảm giác bị đứt đoạn với các tiền nhân, với cội nguồn, và không còn mặc cảm bơ vơ giữa cuộc đời, giữa xã hội. Bởi vậy, ngay cả khi dòng họ của người Việt không còn là những đơn vị tổ chức sản xuất mà đã “vỡ” ra thành những gia đình hạt nhân với quyền sở hữu riêng, thì mỗi thành viên vẫn tìm thấy ở dòng họ mình một chỗ dựa tinh thần vững chãi và vĩnh hằng. Cho nên, “một giọt máu đào hơn ao nước lã” “chín đời còn hơn người dưng” “máu chảy ruột mềm” “chim có tổ, người có tông” “lá rụng về cội”... bao nhiêu câu tục ngữ cũng như rất nhiều truyện cổ tích đều khẳng định cách nhìn nhận về chỗ dựa tin cậy đó. Cũng bởi vậy, dòng họ luôn có một áp lực tinh thần mạnh đối với từng thành viên của nó. Bản thân mỗi cư dân làng xã - xuất phát từ nhu cầu tự thân của mình - đều thừa nhận áp lực của dòng họ mình mà tâm điểm là sự thừa nhận vị thế và uy quyền của người trưởng tộc (và các trưởng chi nếu dòng họ đa đinh). Trong mỗi dòng họ, người trưởng tộc không chỉ được thừa nhận ở vai trò là người chủ trì các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, điều hòa các quan hệ trong họ tộc hay đề xuất các hoạt động tương trợ, mà nhiều khi còn can thiệp trực tiếp vào các công việc cụ thể của mỗi thành viên trong họ. Cái nguyên lý tưởng như trái nghịch “xanh đầu con nhà bác, bạc đầu con nhà chú” lại được tôn trọng một cách tự giác. Những hành vi “thiếu tôn trọng” thường vấp phải sự phản ứng thông qua sự biểu tỏ thái độ không hợp tác của các thành viên khác, nhằm đảm bảo sự cố kết chặt chẽ trong dòng họ. Và để củng cố thêm uy quyền của người trưởng tộc, cũng thực chất là để củng cố thêm quyền lực của dòng họ đối với từng thành viên nhằm đảm bảo sự cố kết chặt chẽ trong dòng họ, cư dân làng xã còn viện đến và thừa nhận một loạt yếu tố khác: một “cương lĩnh” về nguồn gốc huyết thống (gia phả ghi chép thế thứ các đời từ ông tổ cho đến những người đang sống), một hình thái thờ phụng của dòng họ (giỗ tổ họ hay tổ chi họ tại nhà thờ tổ hay nhà thờ chi họ), một chút kinh tế chung của dòng họ (ruộng họ, quỹ họ), đặc biệt là một hệ thống những quy tắc để chế định hành vi (tộc lệ, tộc ước) được các thành viên trong dòng họ tuân thủ nghiêm túc như lời nguyền của tổ tiên để lại, còn các vị trưởng tộc, trưởng chi thì có quyền nắm lấy như một thứ công cụ kiểm soát xã hội đến từng hành vi của mỗi thành viên trong mối quan hệ cá nhân - gia đình - dòng họ. Điều này đã thực sự tạo ra một kỷ cương xã hội riêng biệt - một hệ thống tông pháp, tồn tại như một thiết chế mang quyền lực, tác động bao trùm lên các quan hệ thân tộc.
Tư tưởng tộc quyền được thể hiện rõ hơn ở phương diện thứ hai - phương diện tác động của quyền lực dòng họ đến các quan hệ ngoài phạm vi họ tộc.
Trong tâm thức của cư dân làng xã, sự trường tồn và vững mạnh của dòng họ không chỉ thể hiện ở sự đa đinh (đông nam giới), ở khả năng tập hợp và cố kết bền vững, ở mức độ học hành và làm ăn phát đạt mà còn là, và chủ yếu là, ở trong họ, trước hết là trong gia đình, chi họ mình có nhiều người làm quan trong bộ máy Nhà nước hay nắm giữ được những chức vụ cao trong làng xã hay không. Bởi lẽ “một người làm quan, cả họ được nhờ”, đằng sau chức vụ của một cá nhân là uy thế của cả một dòng họ. Vì vậy, nổi lên quan niệm về sự cần thiết phải khuyếch trương phạm vi chi phối của quyền lực dòng họ mà con đường thích hợp nhất là từng dòng họ, chi họ phải “tập hợp lực lượng” tìm mọi cách đưa những thay mặt của dòng họ mình nắm giữ quyền lực trong bộ máy nhà nước hay thâu tóm quyền lực ở làng xã.
Biểu hiện trước hết là nhận thức về sự cần thiết phải tạo điều kiện hay nâng đỡ cho người trong dòng họ mình tham gia vào bộ máy nhà nước, cụ thể là phải có người trong họ đi làm quan: nhiều dòng họ có tộc ước quy định chế độ khuyến khích và nghĩa vụ của dòng họ giúp người trong họ đi học, đi thi, thi đỗ, ra làm quan, và trách nhiệm của người đã thành đạt đối các thành viên chưa thành đạt trong họ. Trên thực tế, những quy định này được tuân thủ nghiêm túc và nhờ đó xuất hiện nhiều dòng họ khoa bảng, họ làm quan như họ Nguyễn ở làng Kim Đôi (Bắc Ninh), họ Vũ ở làng Mộ Trạch (Hải Dương), họ Đặng ở làng Lương Xá (Hà Tây)... Hiện tượng này được dân gian giải thích là do dòng họ đó ở thế “đất phát” hay do “mộ tổ của dòng họ đó ở thế “đắc địa”, còn dưới cách nhìn khoa học, điều đó có liên quan đến một khía cạnh có thể gọi là “tính trội về mặt sinh học - xã hội của dòng họ”, mà thực chất là hệ quả tích cực của việc sử dụng quan hệ dòng họ để thúc đẩy khả năng nắm quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Nét phổ biến nhất trong biểu hiện của tư tưởng tộc quyền là quan niệm về sự cần thiết phải tập trung sức mạnh dòng họ vào việc tranh giành quyền lực trong làng xã. Trên thực tế, trong xã hội cổ truyền Việt Nam, chỉ một số người thuộc một vài dòng họ trong làng có thể ra làm quan, thoát ly khỏi làng. Bộ phận đông đảo dân làng còn lại suốt đời và truyền đời bám lấy luỹ tre xa...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top