Download Tiểu luận Một số kiến nghị hạn chế việc phải chuyển từ thủ tục rút gọn sang thủ tục chung để giải quyết vụ án miễn phí





Vấn đề kiến nghị sử dụng từ “bị can” ở Điều 319 BLTTHS như đã trình bày lại liên quan đến việc quyết định áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Điều 320 BLTTHS. Điều 320 BLTTHS quy định việc áp dụng thủ tục rút gọn được quyết định sau khi khởi tố vụ án, sau đó gửi cho bị can hay thay mặt hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ mà không đề cập đến việc khởi tố bị can trước khi ra quyết định. Theo chúng tôi, trong trường hợp phạm tội quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, rõ ràng thì khi đã có căn cứ khởi tố vụ án cũng đồng thời có căn cứ để khởi tố bị can nên khi quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải là khi đã khởi tố bị can rồi, nếu chưa ra được quyết định khởi tố bị can thì không thể coi là sự việc đơn giản, rõ ràng để áp dụng thủ tục rút gọn. Mặt khác, nếu sau khi quyết định áp dụng thủ tục rút gọn mới khởi tố bị can thì sẽ khó thực hiện đúng thời hạn giao quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong thời hạn 24 giờ theo quy định của pháp luật dẫn đến vi phạm thời hạn tố tụng và phải chuyển sang giải quyết theo thủ tục chung. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị bổ sung khoản 1 Điều 320 như sau: “Sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, theo đề nghị của cơ quan điều tra hay xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn”. Sau khi đã khởi tố bị can mới xem xét việc quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thì việc dùng từ bị can ở Điều 319 là hoàn toàn hợp lý.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Một số kiến nghị hạn chế việc phải chuyển từ thủ tục rút gọn sang thủ tục chung để giải quyết vụ án TS. Phan Thị Thanh Mai Khoa Luật Hình sự Trường Đại học Luật Hà Nội Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự được áp dụng để giải quyết những vụ án hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn giản, chứng cứ rõ ràng, người thực hiện hành vi phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Thủ tục này có sự rút ngắn về thời gian, đơn giản về thủ tục nhằm giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nhanh chóng, hiệu quả; đồng thời đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự. Trong số các thủ tục đặc biệt được quy định trong BLTTHS Việt Nam, thủ tục đặc biệt có những đặc thù riêng. Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên và thủ tục áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc là những thủ tục đặc biệt được áp dụng đối với bị can, bị cáo là những đối tượng đặc biệt, còn thủ tục rút gọn không áp dụng đối với bị can, bị cáo là đối tượng đặc biệt mà áp dụng trong những điều kiện nhất định. Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên và thủ tục áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc là những thủ tục đặc biệt mà các thủ tục đó đều theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo; chú ý đến việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng đặc biệt này. Thủ tục rút gọn lại tiềm ẩn những điều kiện dẫn đến hạn chế việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Vì vậy, cần cân nhắc, thận trọng trong việc quy định và thi hành thủ tục này. Thủ tục rút gọn có ý nghĩa pháp lý và xã hội sâu sắc trong tình hình hiện nay. Thủ tục này là cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn giản, rõ ràng; đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm kịp thời và sắc bén, góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án kéo dài và các vi phạm các quy định của BLTTHS về thời hạn có xu hướng gia tăng; khắc phục tình trạng quá tải trong các trại tạm giam và những khó khăn trong tổ chức tạm giữ, tạm giam. Việc giải quyết vụ án nhanh chóng sẽ tạo điều kiện để những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhanh chóng được khắc phục, góp phần đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Thủ tục rút gọn còn tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, công sức trong việc giải quyết vụ án những vụ án đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng, tập trung vào việc giải quyết những vụ án nghiêm trọng, phức tạp hơn; đồng thời cũng tiết kiệm được thời gian và chi phí cho những người tham gia tố tụng và giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Thủ tục này cũng đáp ứng yêu cầu của nhân dân về việc xử lý kịp thời, nhanh chóng, chính xác các hành vi phạm tội và người phạm tội, qua đó nhanh chóng phát huy tác dụng giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân thông qua hoạt động xét xử, góp phần vào việc phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, mục đích và ý nghĩa của thủ tục rút gọn chỉ thực sự đạt được nếu vụ án đã áp dụng thủ tục rút gọn không phải tiếp tục áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Nếu vụ án đã áp dụng thủ tục rút gọn, sau đó cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng thủ tục chung để giải quyết thì sẽ không rút ngắn được về thời gian, không đơn giản được về thủ tục, thậm chí còn làm cho trình tự tố tụng kéo dài và phức tạp hơn nếu chỉ áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Vì vậy, cần có những biện pháp hạn chế những trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng thủ tục chung để giải quyết vụ án trước đó đã áp dụng thủ tục rút gọn. Theo nội dung được quy định tại các Điều 318, khoản 2 Điều 322, khoản 5 Điều 324 BLTTHS năm 2003, thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm. Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn được tiến hành theo thủ tục chung. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay tạm đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay tạm đình chỉ vụ án thì Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Trong những trường hợp này, những điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn không còn đầy đủ, tính chất của vụ án đã trở nên phức tạp, vì vậy cần áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Để hạn chế những trường hợp phải chuyển sang áp dụng thủ tục chung để giải quyết đối với những vụ án trước đó đã áp dụng thủ tục rút gọn thực chất là cần hạn chế những trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hay đình chỉ vụ án; bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hay kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Để góp phần thực hiện được mục đích này, chúng tui kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về thủ tục rút gọn như sau: 1. Sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn. Theo quy định tại Điều 319 BLTTHS, thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây: - Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; - Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; - Tội phạm được thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; - Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Những quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn tại Điều 319 BLTTHS năm 2003 về cơ bản là thống nhất với những quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong các văn bản pháp luật trước đây như Thông tư số 139-TTg ngày 28/5/1974 của Thủ tướng chính phủ hướng dẫn về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử các vụ án phạm pháp quả tang; Thông tư số 10-TATC ngày 8/7/1974 của TANDTC về thủ tục rút ngắn trong việc điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án hình sự ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng; Chỉ thị số 954-CP ngày 17/8/1974 của Bộ Công an hướng dẫn về việc áp dụng thủ tục rút ngắn đối với các vụ án hình sự ít nghiêm trọng; Thông tư liên ngành số 12/TTLN ngày 31/12/1990 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ nội vụ hướng dẫn điều tra, truy tố, xét xử đối với một số loại tội phạm. Những quy định này đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn áp dụng, về cơ bản là hợp lý và khả thi. Tuy nhiên, theo chúng tôi, quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn tại Điều 319 vẫn cần hoàn thiện hơn. Thứ nhất, việc sử dụng thuật ngữ “người thực hiện hành vi phạm tội” tại khoản 1 và “người phạm tội” ở khoản 3 điều này là không phù hợp vớ...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top