richkichau99

New Member

Download Tiểu luận Bất cập trong áp dụng các quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản miễn phí





Hiện nay, các tội xâm phạm sở hữu nói chung, trong đó có tội phạm về bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản diễn ra hết sức phức tạp và có xu hướng gia tăng. Nhưng việc áp dụng các quy định của BLHS để điều tra, truy tố, xét xử về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản còn gặp nhiều bất cập do nhận thức và sự áp dụng không thống nhất các quy định của pháp luật. Điều này làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, những quy định của BLHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã bộc lộ những nhược điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh có hiệu quả với tình trạng phạm tội này trên thực tiễn. Cụ thể:



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Bất cập trong áp dụng các quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Vừa qua, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 (BLHS) đã được Quốc hội ban hành. Tuy nhiên, việc sửa đổi này chưa bao quát hết được toàn bộ nội dung các điều, khoản trong BLHS. Vì vậy, có những vấn đề, trong đó có các quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cần được nghiên cứu thêm để có thể sửa đổi, bổ sung trong lần sửa đổi toàn diện sau. 
1. Quy định của pháp luật về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Điều 134, BLHS quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như sau:  
1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm: A) Có tổ chức; B) Có tính chất chuyên nghiệp; C) Tái phạm nguy hiểm; D) Sử dụng vũ khí, phương tiện hay thủ đoạn nguy hiểm khác; Đ) Đối với trẻ em; E) Đối với nhiều người; G) Gây thương tích hay gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; H) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; I) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười tám năm: A) Gây thương tích hay gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; B) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; C) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hay tù chung thân: A) Gây thương tích hay gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hay làm chết người; B) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; C) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản, phạt quản chế hay cấm cư trú từ một năm đến năm năm”.
Những quy định nói trên về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là cơ sở pháp lý cho công cuộc đấu tranh phòng và chống các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, nhất là khi các tội xâm phạm sở hữu có xu hướng gia tăng, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản diễn ra ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Việc ghi nhận Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản còn có ý nghĩa giáo dục mọi tầng lớp nhân dân và răn đe đối với người có ý định phạm tội này, bởi lẽ những người phạm tội này chủ yếu vì mục đích kiếm tiền không phải từ sức lao động của mình. Như vậy, việc ghi nhận Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong BLHS có ý nghĩa giáo dục về tư tưởng, hành vi, lối sống, nhân cách con người, hướng đến cái thiện, xoá bỏ cái ác. Ngoài ra, nó còn góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực của Đảng và Nhà nước ta là: “tiếp tục củng cố và tăng cường hoạt động tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước trong thời kỳ mới, phải mở rộng quan hệ quốc tế về tương trợ tư pháp, về phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội” như Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khoá VII đã nêu.
2. Những vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện các quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Hiện nay, các tội xâm phạm sở hữu nói chung, trong đó có tội phạm về bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản diễn ra hết sức phức tạp và có xu hướng gia tăng. Nhưng việc áp dụng các quy định của BLHS để điều tra, truy tố, xét xử về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản còn gặp nhiều bất cập do nhận thức và sự áp dụng không thống nhất các quy định của pháp luật. Điều này làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, những quy định của BLHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã bộc lộ những nhược điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh có hiệu quả với tình trạng phạm tội này trên thực tiễn. Cụ thể:
Thứ nhất, theo Từ điển tiếng Việt, “bắt cóc là hành vi bắt người một cách đột ngột và đem giấu đi”1. Vậy, hành vi giữ người nhưng không đem giấu đi mà chỉ dùng để uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản có phải là hành vi phạm tội này không? Ví dụ: Nguyễn Văn A vào nhà chị V, thấy con gái của chị V đang ngồi học trong nhà. A chốt cửa lại. Khi chị V về, A không cho con gái chị V ra mở cửa mà uy hiếp tinh thần, yêu cầu chị V phải nộp cho A 50 triệu đồng mới thả con gái chị. Như vậy, A đã thực hiện hành vi bắt giữ con gái chị V và yêu cầu tiền chuộc. Nhưng địa điểm bắt giữ lại chính tại nhà người bị hại. Về vấn đề này, nếu chiếu theo nghĩa đen của từ “bắt cóc” thì A không phạm Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, do A không giấu cháu bé đi; mà hành vi của A chỉ cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản. Nhưng lại có quan điểm khẳng định hành vi của A đã cấu thành Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, vì A đã thực hiện hành vi bắt giữ người nhằm chiếm đoạt tài sản. Theo chúng tôi, chỉ cần người phạm tội bắt, giữ người nhằm chiếm đoạt tài sản là đã phạm tội - không phải Tội cưỡng đoạt tài sản. Tuy nhiên, nếu gọi là “bắt cóc” cũng chưa chuẩn. Vì vậy, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, tên Điều 134 cần được sửa thành: Tội bắt, giữ người nhằm chiếm đoạt tài sản. Khoản 1 Điều 134 BLHS nên được sửa là: Người nào bắt, giữ người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Thứ hai, hiện nay, pháp luật hình sự không quy định về thời gian giam giữ người bị hại bao lâu thì người bắt cóc bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Điều này đã gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến những quan điểm áp dụng pháp luật không thống nhất. Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu có hành vi bắt và giam, giữ con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể truy cứu TNHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, bất kể thời gian giam, giữ là bao lâu. Quan điểm thứ hai lại coi nếu thời gian giam giữ con tin không nhiều, chẳng hạn như chỉ vài phút, thì không thể truy cứu TNHS về tội này mà phải truy cứu TNHS về Tội cưỡng đoạt tài sản. Theo chúng tôi, cứ có hành vi giam, giữ, không phụ thuộc bao lâu, thì có thể truy cứu TNHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, vì mục đích của người phạm tội là bắt, giữ người để chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, vấn đề này cần được khẳng định rõ ràng trong BLHS theo hướng sau: Người nào có hành vi bắt, giữ con tin nhằm chiếm đoạt tài sản không phụ thuộc vào thời gian giam giữ bao lâu thì...
Thứ ba, thực tiễn xét xử cho thấy có những vụ án người phạm tội đã sử dụng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực làm cho người bị bắt cóc lâm vào tình trạng không...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top