daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN......................................................................................................ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề..................................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................9
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................9
6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................10
7. Cấu trúc của luận văn ....................................................................................10
NỘI DUNG.......................................................................................................11
Chương 1. TRUYỆN NGẮN CỦA TỐNG NGỌC HÂN TRONG
DÒNG CHẢY CỦA TRUYỆN NGẮN ĐƯƠNG ĐẠI .........................11
1.1. Khái niệm truyện ngắn, vai trò của thể loại truyện ngắn trong đời sống
văn học.......................................................................................................11
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn ............................................................................11
1.1.2. Vai trò của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học ........................14
1.2. Nhà văn Tống Ngọc Hân trong dòng chảy văn học các dân tộc thiểu số
khu vực miền núi phía Bắc........................................................................17
1.2.1. Vài nét về cuộc đời và quá trình sáng tác của Tống Ngọc Hân ..............17
1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Tống Ngọc Hân...................................19
1.2.3. Quan niệm sáng tác của Tống Ngọc Hân................................................21
1.2.4. Truyện ngắn của Tống Ngọc Hân trong dòng chảy văn xuôi khu vực
miền núi phía Bắc......................................................................................24
Tiểu kết chương 1..............................................................................................32iv
Chương 2. MỘT SỐ KIỂU LOẠI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA TỐNG NGỌC HÂN..........................................................33
2.1. Giới thuyết về nhân vật văn học................................................................33
2.1.1. Khái niệm về nhân vật văn học ...............................................................33
2.1.2. Chức năng của nhân vật văn học.............................................................35
2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Tống Ngọc Hân .......................38
2.2.1. Kiểu nhân vật giàu đức hi sinh, thủy chung, giữ trọn bổn phận .............38
2.2.2. Kiểu nhân vật có số phận bi kịch.............................................................46
2.2.3. Kiểu nhân vật bị tha hóa..........................................................................57
Tiểu kết chương 2..............................................................................................64
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA TỐNG NGỌC HÂN ............................................................... 65
3.1. ghệ thuật miêu tả ngoại hình và hành động...............................................65
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình.................................................................65
3.1.2. Nghệ thuật miêu tả hành động.................................................................69
3.2. Nghệ thuật biểu hiện nội tâm nhân vật......................................................73
3.2.1. Khắc họa nhân vật qua diễn biến tâm trạng, tâm lí .................................73
3.2.2. Khắc họa nhân vật qua không gian, thời gian .........................................77
Tiểu kết chương 3..............................................................................................86
KẾT LUẬN.......................................................................................................87
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................89
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ năm 1986 đến nay, đời sống xã hội đã có những chuyển biến sâu sắc
trên mọi phương diện: sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang
được đẩy nhanh tốc độ phát triển; việc giao lưu, hội nhập đa phương với thế
giới cũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Hòa trong bối cảnh đổi
mới toàn diện của đất nước, nền văn học Việt Nam đã có những chuyển đổi rõ
rệt, ngày càng sâu sắc và toàn diện. Sự cởi mở nhiều chiều đã mang đến những
chuyển biến lớn lao về tư duy văn học. Có thể nói “chưa bao giờ văn xuôi phát
triển mạnh mẽ như bây giờ và cũng chưa bao giờ nhà văn được thành thật như
bây giờ”. Sự đổi mới của văn học được thể hiện trên nhiều phương diện và
trong nhiều thể loại. Quan điểm sáng tác của nhà văn đã có sự dịch chuyển sắc
thái thẩm mỹ mới, cảm hứng sử thi được thay thế bởi cảm hứng đời tư- thế sự,
xu hướng ngợi ca được thay thế bằng xu hướng phê phán hiện thực. Cách nhìn
cuộc sống ở góc độ lạc quan, tốt đẹp được thay bằng cách nhìn trực diện
những vấn đề của đời sống xã hội. Trong sự chuyển đổi chung của nền văn học,
văn xuôi đương đại đã có sự bứt phá và đạt được những thành tựu nghệ thuật
nổi bật so với các thể loại văn học khác.
Nói đến đội ngũ nhà văn viết truyện ngắn đương đại, không thể không
nhắc đến đội ngũ nhà văn nữ vừa đông đảo về số lượng vừa đa dạng về tiềm
năng xuất hiện từ sau đổi mới. Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh trong bài viết
“Đổi mới văn học vì sự phát triển” ghi nhận các cây bút nữ đã có được “những
dấu ấn cá nhân trong tư duy nghệ thuật và cách thể hiện”. Lần đầu tiên trong
lịch sử văn học, văn học nữ Việt Nam thực sự được thể hiện đầy sức sống trong
các không gian, các quan niệm về giới và nữ quyền được chính những người nữ
kiến tạo và vun đắp. Văn học nữ đã rọi chiếu cái nhìn mới vào quá khứ dân tộc,
vào hiện tại hỗn độn bất bình quyền vẫn còn trong bóng đổ của truyền thống
được kiến tạo ấy. Đó là những gương mặt tạo nên bản sắc nữ, ghi một dấu ấn2
đậm nét trên văn đàn và tạo nên diện mạo mới cho văn xuôi với những “thương
hiệu” từ lâu đã đi vào lòng công chúng như Đoàn Lê, Lê Minh Khuê, Dạ Ngân,
Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Võ Thị
Xuân Hà, Y Ban,… và gần đây là Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Phong Điệp,
Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Thị Cẩm, Đỗ Hoàng Diệu, Niê Thanh Mai,... Sự
xuất hiện đông đảo của các cây bút nữ không chỉ đem lại cho văn chương cái
mới lẫn cái lạ mà còn là sự khẳng định ý thức nữ quyền trong sáng tạo nghệ
thuật. Hành trình viết văn của họ cũng là hành trình thể hiện bản lĩnh của người
cầm bút khi dám chấp nhận sự sáng tạo đơn độc và trả giá cho những niềm tin
riêng của mình về cái đẹp. Họ đã viết về những mảnh đời bất hạnh bằng tất cả sự
thấu hiểu và cảm thông với nỗi đau của con người trong nhiều trạng huống khác
nhau. Bên cạnh những nét chung đó, mỗi cây bút nữ lại có những bản sắc riêng
khó lẫn, tạo nên cá tính và phong cách độc đáo góp phần làm nên sự phong phú,
đa dạng cho văn xuôi đương đại.
Nhà văn Tống Ngọc Hân đang nổi lên như một cây bút nữ viết truyện
ngắn đương đại có nội lực và triển vọng. Tính đến nay chị đã sở hữu 9 tập
truyện ngắn, đặc biệt là hai tiểu thuyết hấp dẫn đầy ắp chất trinh thám. Văn
xuôi của Tống Ngọc Hân cuốn hút ở lối viết tinh tế, mới đọc thấy nhẹ nhàng,
càng ngẫm nghĩ càng thấy sâu sắc. Chất văn của chị đẹp, quyến rũ, mê hay hệt
như vẻ đẹp tự nhiên, thuần khiết, khỏe khoắn, rạng rỡ. Chị đã tạo dựng cho
mình một lối viết riêng, một phong cách khó pha trộn, chị viết như một nhu cầu
tự thân đồng thời cũng không ngừng tìm tòi, đổi mới về nội dung và hình thức
thể hiện. Những nỗ lực sáng tạo nghệ thuật không ngừng nghỉ đó đã mang lại
cho chị những giải thưởng văn học giá trị. Giải thưởng của Hội văn học nghệ
thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, giải thưởng Văn học nghệ thuật Phan Si
Păng của UBND tỉnh Lào Cai, giải thưởng Văn nghệ Quân đội, giải thưởng của
Bộ Công an và Hội nhà văn Việt Nam về đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình yên
cuộc sống, giải thưởng Nông thôn đổi mới của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn phối hợp với Hội nhà văn tổ chức.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
Đã có không ít những cuộc phỏng vấn, những bài viết trên các báo, tạp
chí và những cuộc trao đổi trên các diễn đàn và báo mạng về những sáng tác
của Tống Ngọc Hân. Tuy nhiên, sự quan tâm của bạn đọc và giới phê bình mới
chỉ dừng lại ở những bài viết trên báo và tạp chí. Cũng đã có luận văn nghiên
cứu về sáng tác của chị nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống, toàn điện về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của chị. Với những lí do
trên, chúng tui lựa chọn đề tài: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Tống
Ngọc Hân.
Tiếp cận thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Tống Ngọc Hân, chúng
tui mong muốn góp thêm tiếng nói khẳng định những thành công trong đổi mới
tư duy nghệ thuật của chị trong cách xây dựng nhân vật, đồng thời ghi nhận
những đóng góp của nhà văn cho văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Nhà văn Tống Ngọc Hân là một trong những gương mặt trẻ của Hội Nhà
văn Việt Nam. Đây cũng là một trong những gương mặt sớm khẳng định tên
tuổi về đề tài miền núi với chất giọng đẹp, thâm trầm, nhiều day dứt. Quá trình
lao động nghệ thuật miệt mài và sáng tạo, nhà văn Tống Ngọc Hân đã cho ra
đời 2 tập thơ mang tên “Những nét vân tay”, “Lệ trăng” và khoảng 200 truyện
ngắn, trong đó có 8 tập truyện đã được xuất bản: “Khu vườn yên tĩnh”, “Sợi
dây diều”, “Đêm không bóng tối”, “Hồn xưa lưu lạc”, “Mây không bay về
trời”, “Tam không”, “Kiều mạch trắng”, “Bức phù điêu mạ vàng” và phần lớn
tác phẩm xuất sắc được đăng trên ấn phẩm: Nhân dân hàng tháng, Tạp chí Văn
nghệ, Văn nghệ Quân đội, Văn nghệ Công an… Cùng với đó là 2 cuốn tiểu
thuyết “Âm binh và lá ngón”, “Huyết ngọc” đầy sự tinh tế, sâu sắc. Với những
đóng góp ấy, chị đã vinh dự được nhận nhiều giải thưởng của các cuộc thi viết
truyện ngắn, các tạp chí trong cả nước. Tác phẩm của chị luôn giành được sự
quan tâm của giới phê bình và bạn đọc trong nước.
Trong dòng mạch văn học nước nhà, bộ phận văn học khai thác đề tài
dân tộc thiểu số và miền núi là một dòng chảy tuy không ồn ào, mạnh mẽ4
nhưng chứa nhiều ẩn số thú vị, hứa hẹn những phát hiện độc đáo. Tiếp nối
thành công của thế hệ nhà văn tiền bối, nhiều cây bút trẻ (cả về tuổi đời và tuổi
nghề) đang hăm hở khẳng định mình với hi vọng trở thành những người kế tục
xứng đáng.
Bàn đến Tống Ngọc Hân và sáng tác của chị, tác giả Bùi Hải Yến nhận
xét: "Nếu ai đã đọc tập thơ đầu tay “Những nét vân tay” (2007) hay từng đôi
lần lật giở những trang truyện ngắn trong các tập “Khu vườn yên tĩnh” (2009),
“Hồn xưa lưu lạc” (2014) hẳn nhận ra ngay chất núi rừng, hoang hoải của
nắng gió, của rừng, của ruộng bậc thang và của con người miền Tây Bắc thấm
qua từng trang viết của chị" [76]. Cảm nhận riêng về truyện ngắn "Mầm đắng",
tác giả cho rằng: "Cùng với các truyện ngắn “Nước mắt để dành”, “Lửa cười
lửa khóc”, “Hồn xưa lưu lạc”… “Mầm đắng” nối tiếp mạch miêu tả về “một
vùng văn hóa, một tộc người, một phong tục đậm nét” bằng việc khắc họa chân
thực cuộc đời của một cô gái người Giáy thông minh, bản lĩnh với khát vọng
được học, được có nghề nghiệp, được đi nhiều nơi và kết giao nhiều bạn nhưng
cuối cùng lại trở thành nạn nhân của nạn “đẻ thuê”" [76].
Lời bàn của nhà thơ Trần Đăng Khoa: "Những năm gần đây trong làng
văn khi nhắc đến Tống Ngọc Hân, ta thường nghĩ đến một nhà văn nữ viết khá
xuất sắc về miền núi. Sau Đỗ Thị Tấc, Đỗ Bích Thúy là Tống Ngọc Hân. Nói
như nhà văn Chu Lai: “Truyện của Tống Ngọc Hân luôn thấm đượm chất dân
tộc, miền núi và nồng nã hương vị đàn bà”. Truyện này, một vùng biên giới chỉ
lờ mờ bối cảnh. Còn câu chuyện lại xoay quanh một con người. Một gã nông
dân bỏ quê đi làm phu khuân vác. Nó không tỏa ra “chất dân tộc miền núi”,
mà lại nồng đượm cái mùi… Tống Ngọc Hân với lối kể bộc trực, giản dị, nhưng
cũng đủ hiện hình một con người, một số phận éo le và không kém phần khốc
liệt. Cái hay nhất của truyện ngắn này là sự hấp dẫn, dù cốt truyện chẳng có gì
gay cấn, lắt léo. Chuyện chẳng có gì mà vẫn cuốn hút. Đó là cái duyên, cái tài
của Tống Ngọc Hân chăng?" [38].
Sau cuộc thi truyện ngắn trên Tạp chí Văn Nghệ quân đội năm (2013-
2014), nhà văn Chu Lai- với tư cách là thành viên Ban chung khảo cuộc thi đã
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
bày tỏ ý kiến của mình về tác phẩm của Tống Ngọc Hân "với truyện “Con trai
người Xá Phó” độc giả sẽ tìm được một sự tương đồng về bút pháp thẩm thấu
vi diệu về những con người vùng núi non phía bắc với suy nghĩ, ngôn từ, cảnh
sắc, quan niệm về tình yêu, tình vợ chồng, hạnh phúc, thậm chí cả mối tình tay
ba chỉ có con người ở đây mới có" [37].
Khi tiểu thuyết “Huyết ngọc” ra đời, nhà phê bình Bùi Việt Thắng đã
viết như sau: “Từ truyện ngắn chuyển sang tiểu thuyết, với ai đó có thể lúng
túng, riêng với Tống Ngọc Hân, tui thấy chị vững vàng và tự tin khi viết. Có lẽ
vì chị chỉ viết về những gì mình am tường nhất, trải nghiệm nhất không theo lối
đi thực tế, có ghi chép và đúc rút". Từ đó nhà phê bình Bùi Việt Thắng cho
rằng “Kể cả truyện ngắn và tiểu thuyết của Tống Ngọc Hân, sở dĩ lôi cuốn đọc
giả vì đều có “chuyện”, nghĩa là có cốt truyện hay với nhiều tình tiết điển hình,
và ngồn ngộn các chi tiết sinh sắc” [61].
Cảm nhận về tập truyện “Khu vườn yên tĩnh” (2009), nhà văn Mã A
Lềnh cho rằng: “Hình như Tống Ngọc Hân với “Khu vườn yên tĩnh” nhắn nhủ
rằng chớ có đọc truội đi, không phải loại sách đọc để chống lãng phí thời gian;
không phải loại sách đọc to lên hay đọc lúc ồn ào cho ra vẻ sính chữ. Ý nghĩ ấy
cứ găm trong tâm trí nên tui phải tìm một nơi thật yên tĩnh để nhấm nháp từng
câu, nhâm nhi từng ý. Hết trang cuối cùng, gấp sách, nhắm mắt, tui tưởng
tượng ra Khu vườn của Tống Ngọc Hân không phải mảnh vườn xinh xắn với
những luống đất gọn ghẽ, với những hàng cây trồng mơn mởn qua tay nhà
nông cần mẫn lão luyện; mà nó là cả một vùng quê núi nham nhở quặn quãi”
[41]. Nhận xét về văn chương của Tống Ngọc Hân, tác giả cho rằng: “Văn
chương thuộc về xã hội khốn cùng, và khi nào còn hiện diện những số phận
khốn cùng thì vẫn còn văn chương. Chắc chắn là vậy! Và đây, trong Khu vườn
yên tĩnh ấy, bằng con mắt tinh tường của nhà văn, Tống Ngọc Hân lùa những
dòng chữ vào từng góc khuất, chỉ cho người đọc từng thân phận ngang trái, trớ
trêu, những cuộc đời cho dù là cá biệt, nhưng hình như họ, nhân vật mà nhà
văn bắt gặp vẫn có mặt thấp thoáng đây đó” [41].6
Theo Hoàng Sông Gianh: “đến với “Hồn xưa lưu lạc”, người đọc được
đắm mình trải nghiệm không gian đậm đặc văn hóa vùng cao. Ngoài những
báu vật, linh vật lưu cữu hồn vía tộc người đã kể, còn là hội chơi núi (hội gầu
tào), tục kéo vợ, là sinh hoạt lao động vẽ sáp, đi nương đi ruộng, nhuộm vải,
trồng lanh, xe sợi, thêu thùa, khâu vá, xay ngô, nấu rượu, nướng thịt...”. Qua
tập truyện, tác giả còn bày tỏ ý kiến “là khúc bi ca về đặc sắc tinh hoa văn hóa
Mông nói riêng, văn hóa tộc người nói chung được chiu chắt, trao truyền, nâng
giữ từ bao đời đang đứng trước cơn cưỡng bức, xâm thực bất khả cưỡng của
văn hóa miền xuôi, văn hóa ngoại quốc” [29].
Nhà phê bình Nguyên An khi khép lại trang cuối cùng tập truyện ngắn
“Đêm không bóng tối”, ông bày tỏ: “...Truyện của Tống Ngọc Hân đấy ứ, đầy
tràn những nỗi đời. Đôi khi ta như không rõ những chuyện trong truyện ngắn
của chị là ở thời nào nữa... Mà cái thời nào đấy cũng chỉ thấy thoáng hiện qua
thôi, hình như là mấy năm hợp tác xã, đâu như hồi còn chống Mỹ cứu nước
giải phóng miền Nam, chả như là dạo mới kinh tế thị trường... Nhưng nỗi đời
thì sâu đằm và da diết quá, buồn thương tiếc nuối rồi bâng khuâng ngẩn ngơ
nữa. Cả một vùng đất với nhiều số phận đã được khai mở dần trong truyện
ngắn Tống Ngọc Hân, mang mang mà mồn một rõ” [11]. Và còn văn của chị
“thì thấy tin yêu đời và thương đời lắm. Thương, ngay khi chị kể về những lỗi
lầm, sai trái, oái oăm; Thương, ngay khi chị dựng lại những trang đời kể ra,
cũng đáng trách, đáng giận. Tình thương ấy không có vẻ ban phát mà nó thấm
thía cả nỗi thống hiểu, sẻ chia của người cùng cảnh” [11].
Nguyễn Ngọc Dương qua Vài nét về thân phận người đàn bà trong
truyện ngắn Nước mắt để dành của Tống Ngọc Hân đã chỉ ra nguyên nhân dẫn
đến bi kịch của những người phụ nữ có nguyên do từ sự nhẫn nhục, cam chịu:
“bi kịch của những người đàn bà trong gia đình Phàn Quang phần lớn do
người đàn ông gây nên… Cái bi kịch của người đàn bà còn nguyên nhân nữa là
do chính họ gây nên. Ấy là sự cam chịu, là sự buông xuôi số phận, không muốn
vươn lên để dành lấy những quyền cơ bản của mình” [21].
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
Tác giả Mai Thùy Nhung, trong Lời bình tập truyện ngắn “Lửa cười lửa
khóc” nhận định “Lửa cười lửa khóc là tiếng nức nở, xót xa cho những giá trị
đạo đức sắp sửa lụi tàn” (…) “Phải chăng giọt nước mắt âm thầm của mẹ, giọt
nước mắt vo tròn lăn nhanh qua đôi gò má rám nắng của cha, giọt nước mắt rỉ
ra loang loáng của ông, câu hỏi đau đáu của bà và hình ảnh ngọn lửa khóc
chính là biểu hiện xót xa cho những giá trị truyền thống đành phải lui bước,
đầu hàng trước đổi thay của con người và thời cuộc?”(…) “bằng một kĩ thuật
chắc tay, điêu luyện, là tiếng nói đầy trách nhiệm của một công dân - nhà văn,
là sản phẩm sáng tạo của một cá tính sắc nét” [52].
Từ sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, nhà văn Tống Ngọc
Hân đã có những cách tân táo bạo về cách biểu hiện. Sự lựa chọn ban
đầu về thể loại là một thực tế tất yếu nhưng trong nhiều trường hợp nhà văn
không có ý định bảo tồn sự “thuần khiết thể loại” mà hướng tới xóa nhòa
những lằn ranh thể loại để làm mới tác phẩm nghệ thuật.
Nhận xét về những dịch chuyển đó, tác giả Hoàng Thụy Anh trong bài
viết Tình người trong Tam không đã nhận định: “Truyện ngắn của Tống Ngọc
Hân vừa đậm bản sắc vùng miền vừa có sự đổi mới, cách tân”. Còn cốt truyện
“có sử dụng cốt truyện đơn tuyến và có truyện sử dụng cốt truyện đa tuyến” (..)
Đến “thời gian trần thuật lệch pha với thời gian cốt truyện; tạo được những
tình huống truyện gay cấn, hấp dẫn; phá vỡ kiểu thời gian tuyến tính ” (…).
Trong truyện có “nhiều chi tiết, sự kiện đan xen; quan hệ giữa các nhân vật
phức tạp”. Đặc biệt “nhiều truyện đã bứt khỏi kiểu kết thúc có hậu, kết thúc
theo kiểu mở, khơi gợi tính đồng sáng tạo” [14].
Có thể nhận thấy những bài viết về sáng tác của Tống Ngọc Hân trên các
báo và tạp chí chưa thực sự phong phú, mới chỉ dừng lại ở những ấn tượng,
những cảm nhận trên một tập truyện, tên truyện hay chỉ nghiên cứu ở một khía
cạnh của nhân vật nữ miền núi mà chưa thực sự đi sâu vào tìm hiểu thế giới
nhân vật trong truyện ngắn.
Bên cạnh đó còn có các luận văn nghiên cứu về sáng tác của chị. Chẳng
hạn, Thân phận người phụ nữ miền núi trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy và8
Tống Ngọc Hân, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội
của tác giả Hà Thị Biên; Nhân vật nữ trong văn xuôi của Tống Ngọc Hân, luận
văn thạc sĩ ngôn ngữ, văn hóa và văn học Việt Nam, Đại học Sư phạm Thái
Nguyên của tác giả Phạm Thị Thu Hường. Các công trình nghiên cứu trên hoặc
là kết hợp nghiên cứu với các nhà văn nữ khác hay chỉ đề cập đến khía cạnh
nhân vật nữ trong văn xuôi... Tuy nhiên, đây cũng là gợi ý quý báu giúp chúng
tui mạnh dạn triển khai đề tài nghiên cứu Thế giới nhân vật trong truyện ngắn
của Tống Ngọc Hân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thế giới nhân vật trong truyện ngắn
của Tống Ngọc Hân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm 8 tập truyện ngắn của Tống
Ngọc Hân, sáng tác trong mười năm từ khi nhà văn công bố tập truyện ngắn
đầu tiên đến tập truyện ngắn mới đây nhất:
- Khu vườn yên tĩnh (2009); Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
- Sợi dây diều (2010); Nxb Hà Nội, Hà Nội.
- Đêm không bóng tôí (2013); Nxb Hà Nội, Hà Nội.
- Hồn xưa lưu lạc (2014); Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
- Mây không bay về trời (2015); Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
- Tam không (2016); Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
- Kiều mạch trắng (2018); Nxb Phụ Nữ.
- Bức phù điêu mạ vàng (2019); Nxb Văn Học.
Phạm vi nghiên cứu lý thuyết của luận văn là khái quát truyện ngắn của
Tống Ngọc Hân trong dòng chảy truyện ngắn đương đại và văn xuôi khu vực
miền núi phía Bắc; những đặc điểm nổi bật về thế giới nhân vật và những độc
đáo trong cách tân ở phương diện biểu hiện. Từ đó thấy được những đóng góp
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
của nhà văn Tống Ngọc Hân đối với sự phát triển của văn xuôi nữ nói riêng và
văn học đương đại Việt Nam nói chung.
Phạm vi nghiên cứu tư liệu của luận văn ngoài những tập truyện ngắn đã
xuất bản, luận văn cũng khảo sát một số tác phẩm truyện ngắn đương đại tiêu
biểu nằm cùng dòng chảy để liên hệ và so sánh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái lược truyện ngắn đương đại Việt Nam và hành trình sáng tác của
Tống Ngọc Hân.
- Định danh những kiểu nhân vật nhìn từ phương diện nội dung và
cách biểu hiện trong truyện ngắn của Tống Ngọc Hân.
- Nghiên cứu nghệ thuật thể hiện nhân vật trong truyện ngắn của Tống
Ngọc Hân
- Ghi nhận những đóng góp của Tống Ngọc Hân trong diện mạo chung
của truyện ngắn đương đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đáp ứng yêu cầu và đạt được mục đích của đề tài đặt ra, trong quá
trình triển khai, nghiên cứu hoàn thành luận văn, chúng tui vận dụng những
phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp này giúp chúng tui trong
quá trình khảo sát, phân loại các đặc điểm nổi bật về thế giới nhân vật và một số
cách biểu hiện nghệ thuật trong các sáng tác của Tống Ngọc Hân.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dựa trên các phương diện, quan
điểm liên quan đến giới thuyết về truyện ngắn đương đại, thế giới nghệ thuật
và nhân vật văn học; luận văn tiến hành phân tích các tác phẩm cụ thể để
tổng hợp, khát quát những đặc điểm của truyện ngắn Tống Ngọc Hân.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành văn hóa- văn học: Sử dụng thi pháp
học, văn hóa học,… để thấy được những ảnh hưởng của văn hóa dân tộc đến
quan điểm sáng tác của nhà văn Tống Ngọc Hân.10
6. Đóng góp của luận văn
Nếu luận văn được nghiên cứu thành công, chúng tui hy vọng sẽ có được
một số đóng góp sau đây:
- Góp thêm một cách tiếp cận về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của
Tống Ngọc Hân bằng công trình nghiên cứu mang tính chuyên biệt.
- Là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu, giảng dạy
và học tập về văn học các dân tộc thiểu số miền núi nói chung và nhà văn Tống
Ngọc Hân nói riêng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Truyện ngắn của Tống Ngọc Hân trong dòng chảy của truyện
ngắn đương đại
Chương 2: Một số kiểu loại nhân vật trong truyện ngắn của Tống Ngọc Hân
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong truyện ngắn của Tống
Ngọc Hân.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
NỘI DUNG
Chương 1
TRUYỆN NGẮN CỦA TỐNG NGỌC HÂN TRONG DÒNG CHẢY CỦA
TRUYỆN NGẮN ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Khái niệm truyện ngắn, vai trò của thể loại truyện ngắn trong đời sống
văn học
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn
Truyện ngắn là một thể loại không thể thiếu trong bất kì nền văn học dân
tộc nào. Đây là một thể loại hết sức gần gũi và có nhiều ý nghĩa đối với sự phát
triển toàn diện và vững chắc của văn học, cũng như đối với sự rèn luyện mài
dũa ngòi bút của các nhà văn.
Truyện ngắn là một khái niệm quen thuộc nhưng tìm một định nghĩa duy
nhất, đầy đủ, chính xác về nó thì không dễ. Cho đến nay, đã có rất nhiều nhà
văn, nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã bàn về truyện ngắn, đặc biệt là truyện
ngắn trong tư cách một thể loại của văn học hiện đại. Các giáo trình lí luận văn
học trong và ngoài nước, các chuyên luận, các bài báo trên các tạp chí đã dành
cho truyện ngắn một sự quan tâm khá đặc biệt. Trong Từ điển văn học bộ mới,
truyện ngắn được xác định là “một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng
văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện đời sống của con người và xã hội.
Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với
việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ” [27, tr.153].
Mục truyện ngắn trong Từ điển thuật ngữ văn học ghi nhận truyện ngắn là “tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các
phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó
là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi
không nghỉ” [33, tr.370].
Các nhà văn, với trải nghiệm thực tế của mình, đã đưa ra những cảm
nhận cụ thể và một số đúc kết đa dạng. Antônốp đã phát biểu: “Truyện ngắn
giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ,12
cô đúc, các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải chính
xác. Đây là một việc vô cùng tinh tế. Xoay xỏa trên một mảnh đất hẹp, đó
chính là chỗ để cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác” [77, tr.146].
Các quan niệm trên đều thống nhất nhận diện truyện ngắn ở những tiêu
chí cốt lõi sau: Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Hình thức “nhỏ”, “ngắn”
là dấu hiệu đầu tiên để người đọc nhận diện truyện ngắn. Dung lượng truyện
ngắn kéo dài từ vài chục chữ đến khoảng 20.000 chữ. Nếu tính theo số trang,
dung lượng của một truyện ngắn thường co giãn khoảng từ 3 đến 50 trang.
Dưới con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mini”, “truyện ngắn trong
lòng bàn tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi là truyện vừa; trên 100 trang là
tiểu thuyết. Những cách gọi này tương ứng với các khái niệm “đoản thiên tiểu
thuyết” (truyện ngắn), “trung thiên tiểu thuyết” (truyện vừa) và “trường thiên
tiểu thuyết” (tiểu thuyết) vốn phổ biến ở nước ta thời kì đầu văn xuôi tự sự hiện
đại. Tuy nhiên, tính chất “nhỏ” của truyện ngắn không chỉ nằm trong dung
lượng, mà quan trọng hơn là ở cách nắm bắt cuộc sống của thể loại. Truyện
ngắn không có tham vọng ôm vào mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng.
Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc. Nguyên tắc chung nhất của
truyện ngắn không cho phép dồn ép hay nhồi nhét rút gọn nội dung của một
truyện dài, hay một hình thức tương đương như thế, thành một truyện ngắn.
Như vậy, ngắn ở truyện ngắn đồng nghĩa với cô đọng, tinh chất - nhìn vào đó
có thể thấy cuộc sống hiện ra với đủ sắc màu của nó.
Bên cạnh đặc điểm “ngắn”, các nhà nghiên cứu còn khu biệt truyện ngắn
ở tính chất giới hạn trong việc phản ánh đời sống và ở hiệu quả nghệ thuật mà
nó tạo ra khi so sánh với một thể loại gần gũi là tiểu thuyết. Cùng thuộc về loại
hình tự sự hư cấu, truyện ngắn gần gũi tiểu thuyết ở chỗ nó cũng có khả năng
phản ánh hầu hết các phương diện của đời sống như đời tư, thế sự hay sử thi.
Truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện hay
một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật, nhưng cái chính của truyện ngắn
không phải ở hệ thống sự kiện, mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy
đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện
tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm
hồn của con người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện
phức tạp. Và nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới, thì nhân vật của
truyện ngắn là mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không nhắm tới
việc khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan
với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái
quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hay trạng thái tồn tại của con người. Mặt khác,
do đó truyện ngắn lại có thể mở rộng diện nắm bắt các kiểu loại nhân vật đa
dạng của cuộc sống, chẳng hạn như chức nghiệp, xuất thân, gia hệ, bạn bè,…
những kiểu loại mà trong tiểu thuyết thường hiện ra thấp thoáng trong các nhân
vật phụ.
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không gian
hạn định. Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn lại
là mặt cắt của dòng đời. Nếu tiểu thuyết diễn tả một quá trình vận động của cuộc
sống thì truyện ngắn lại tập trung vào một tình thế thể hiện một bước ngoặt, một
trường hợp hay một tâm trạng nhân vật. Truyện ngắn “khái quát cuộc sống theo
chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để nối cái vĩnh cửu” [59]. Để
đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tưởng mà vẫn sống động tự nhiên, truyện ngắn
phải “lựa chọn được một cách nhìn và một điểm nhìn tập trung, giống như cái
tiêu điểm của thấu kính, tập trung ánh sáng mặt trời để có thể đốt cháy đám bùi
nhùi” [59]. Cốt truyện của truyện ngắn có thể nổi bật, hấp dẫn, nhưng chức năng
của nó nói chung là để nhận ra một điều gì. Cái chính của truyện là gây ra một ấn
tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người.
Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng nhiều tuyến như
tiểu thuyết mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hay liên
tưởng. Kết cấu của truyện ngắn đòi hỏi phải có sự chặt chẽ, sao cho chủ đề tập
trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ các bộ phận của tác phẩm,14
kể cả những chi tiết nhỏ nhất, để có thể tạo nên hiệu quả nghệ thuật duy nhất,
từ đó tạo nên một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. “Cũng như kịch
ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết một công việc tổ chức và cấu trúc truyện
hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật tinh xảo - kĩ thuật viết
truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật làm pháo, dồn nén tư tưởng vào trong
một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [20, tr.251].
Chi tiết là yếu tố rất quan trọng trong truyện ngắn. Chi tiết góp phần tạo
dựng cảnh trí, không khí, tình huống và khắc họa hành động, tính cách, tâm tư
nhân vật. Nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định “Truyện ngắn có thể có cốt truyện,
thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có
cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể cùng kiệt chi tiết.
Nó sẽ như nước lã”. Chi tiết trong truyện ngắn thường cô đúc và có dung lượng
lớn. Cùng lối hành văn mang nhiều ẩn ý, chúng tạo cho tác phẩm những chiều
sâu chưa nói hết. Chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ tượng
trưng, tạo sức ám ảnh”.
Tóm lại, với những đặc điểm cơ bản vừa nêu, có thể khẳng định truyện
ngắn là một thể loại dân chủ, gần gũi với đời sống hằng ngày, lại súc tích, dễ
đọc, có tác dụng và ảnh hưởng kịp thời trong đời sống.
1.1.2. Vai trò của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học
Lịch sử phát triển của nền văn học hiện đại và đương đại Việt Nam gắn
liền với truyện ngắn. Thế kỉ XX, truyện ngắn Việt Nam phát triển liên tục và
vượt trội lên trên tất cả các thể loại, bắt đầu từ những năm hai mươi với sự
đóng góp của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Công
Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Kim Lân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Vũ Bằng… Truyện
ngắn hiện đại Việt Nam trước 1945 không chỉ phát triển mạnh mẽ, nhanh
chóng theo hướng hiện đại, mà còn phân hóa theo nhiều xu hướng phức tạp.
Trong đó nổi lên hai xu hướng chính là lãng mạn trữ tình và hiện thực phê
phán. Hai xu hướng này tồn tại song song, vừa đấu tranh với nhau, vừa ảnh
hưởng, tác động qua lại, có khi chuyển hóa lẫn nhau.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
Từ sau Cánh mạng tháng Tám truyện ngắn có chững lại nhưng vẫn chảy
liên tục với tên tuổi: Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Nguyễn
Quang Sáng, Vũ Thị Thường, Lê Minh, Nguyễn Minh Châu… Chiến tranh
kết thúc, truyện ngắn vượt lên tỏ rõ sự ưu việt của mình trong sự khám phá
nghệ thuật đời sống. Từ sau năm 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở
rộng phạm trù thẩm mỹ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa
dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân
về thi pháp. Mỗi nhà văn lý giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng với những
phương pháp nghệ thuật của riêng mình. Giai đoạn này được coi là giai đoạn
cực thịnh của thể loại truyện ngắn trong nền văn học nước ta. Nhà nghiên cứu
Phạm Tuấn Anh cho rằng: “Những phẩm chất thẩm mỹ mới chỉ có thể được
nảy nở, phô sắc và kết đọng trong một môi trường văn hóa - xã hội mới.
Không ai còn có thể hoài nghi gì nữa về vai trò của bối cảnh văn hóa - xã hội
Việt Nam kể từ thời kỳ đổi mới đối với sự nghiệp phát triển dồi dào của văn
xuôi trong đó có truyện ngắn…” [13].
Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi đây là thời kỳ "lên ngôi" của
truyện ngắn. Điều này hoàn toàn có thể cắt nghĩa được bởi trong nhịp độ của
đời sống công nghiệp hiện đại, dưới sức ép từ phía các phương tiện nghe nhìn
truyện ngắn đã phát huy dược ưu thế của mình một cách hiệu quả. Thêm vào đó
là sự xuất hiện đồng loạt các cây bút nữ ngỡ có lúc họ làm chủ văn đàn cũng tỏ
ra rất "vừa tay" với thể loại này. Với một khuôn khổ có thể gọi là nhỏ bé, với
sự tước bỏ những chi tiết rườm rà, với sự dồn nén của yếu tố không - thời gian,
yếu tố tâm lý nhân vật... Truyện ngắn có khả năng khai thác sâu những bước
ngoặt của số phận. Theo nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu thì truyện ngắn "Cùng
nằm trong hệ tư duy của cách tự sự, song nếu ví tiểu thuyết như một
cây đại thụ với đầy đủ gốc, thân, cành, lá xum xuê thì truyện ngắn chỉ là một lát
cắt ngang của thân cây đó. Điều quan trọng là trên mặt cắt ấy phải nổi rõ những
đường vân hiện thực" [67]. Đó là hướng tiếp cận và cách thức phản ánh của thể
loại này.16
Một khối lượng đồ sộ những tác phẩm truyện ngắn của các nhà văn
Nguyễn Minh Châu - người được mệnh danh là nhà văn tiên phong của quá trình
đổi mới (Cỏ lau, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra, Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài
xa, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), Nguyễn Quang Lập (Tiếng gọi phía
mặt trời lặn), Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu), Nguyễn Quang Thiều (Hai
người đàn bà xóm trại), Phạm Hoa (Đùa của tạo hoá), Tạ Duy Anh (Bước qua
lời nguyền, Xưa kia chị đẹp nhất làng), Võ Thị Hảo (Biển cứu rỗi), Nguyễn Thị
Thu Huệ (Hậu thiên đường), Y Ban (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ), Phan Thị Vàng
Anh (Khi người ta trẻ), Phan Triều Hải (Một tối ở quán bar) v.v... thực sự đã
mang đến một nguồn sinh lực tràn trề cho thể loại. Cùng với sự gia tăng những
tên tuổi mới và số lượng tác phẩm, truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều
hướng tìm tòi cả trong tiếp nhận hiện thực lẫn thi pháp thể loại. Đó là chiều sâu
triết lý và những cảm nhận về nỗi cô đơn, của thân phận con người, là sự đan cài
giữa cái ảo và cái thực, giữa chất thơ và văn xuôi... Những bước cách tân ấy đã
tạo nên sắc diện mới và sự lôi cuốn cho thể loại. Những cuộc thi truyện ngắn liên
tục, đều đặn của tạp chí Văn nghệ quân đội, báo Văn nghệ đã phát hiện nhiều tài
năng mới. Có thể nói rằng, trong văn xuôi, truyện ngắn là thể loại đã khẳng định
được vị trí của mình và có tầm ảnh hưởng rộng rãi nhất đối với đời sống văn học
thời kỳ đổi mới.
Đầu thập niên 90, trên văn đàn xuất hiện một loại "truyện rất ngắn", còn
gọi là "truyện ngắn mi-ni". Tiền thân của dạng truyện này là những "mẩu
chuyện", khác với truyện vừa, truyện ngắn là những "câu chuyện". Sức hấp dẫn
của truyện ngắn mi-ni chính là sự hàm súc, đúc đọng của ý tưởng và ngôn từ,
trong đó có sự kết hợp giữa triết lý ngụ ngôn và chất thơ, giữa tính biểu tượng
và hình ảnh thực, giữa cảm xúc và nhận thức lý tính. Sự đăng đàn của truyện
ngắn mi-ni cho thấy độ co giãn của thể loại đang có nhiều biến động. Tuy
nhiên, đây mới là những thể nghiệm bước đầu bởi truyện rất ngắn đòi hỏi một
độ nhạy cảm cao và sự dẫn dắt khéo léo, nếu không rất dễ trở thành những câu
chuyện ngụ ngôn hiện đại.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
Nhìn chung, các thể loại trong dòng văn học đương đại Việt Nam đã có
những bước vận động và phát triển tích cực theo chiều hướng hiện đại. Dưới áp
lực cạnh tranh của các phương tiện nghe nhìn, văn học đang cố "thu mình lại",
lựa chọn một "khuôn hình" thể loại đáp ứng được thị hiếu văn chương và nhu
cầu thông tin thời hiện đại. Con đường đi của truyện ngắn Việt Nam còn đang ở
phía trước, sẽ lại còn nhiều thế hệ cầm bút mới kế tiếp. Ghi nhận thành tựu của
văn học đổi mới cũng là khẳng định sự đóng góp lớn lao và sự lớn mạnh không
ngừng của đội ngũ những người cầm bút. Một sự lớn mạnh dự báo những tín
hiệu tốt lành với nhiều bứt phá cho một nền văn học tương lai.
1.2. Nhà văn Tống Ngọc Hân trong dòng chảy văn học các dân tộc thiểu số
khu vực miền núi phía Bắc
1.2.1. Vài nét về cuộc đời và quá trình sáng tác của Tống Ngọc Hân
Nhà văn Tống Ngọc Hân tên thật là Tống Thị Ngọc Hân, sinh ngày 02
tháng 09 năm 1976 tại xã Đông Lĩnh, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Nhà văn
được bạn đọc cả nước quan tâm bởi lối viết cuốn hút, thâm trầm, nhiều day
dứt trong những sáng tác về đề tài miền núi, biên giới và đồng bào các dân tộc
thiểu số. Tống Ngọc Hân bén duyên với văn chương từ rất sớm theo lẽ cũng
rất tự nhiên, trong cuộc trò chuyện với phóng viên báo Hà Nội mới, chị từng
tâm sự: "tui làm quen với văn chương từ khi học chữ và biết yêu thích những
bài văn, bài thơ trong sách giáo khoa". Năm 1995, sau khi tốt nghiệp phổ
thông, Tống Ngọc Hân thi vào khoa Văn, trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phú
(nay là Đại học Hùng Vương) với mong muốn sẽ trở thành cô giáo dạy văn
trường làng.
Lên thành phố ăn học, chị tham gia lớp sáng tác thơ để thỏa nỗi yêu thích
của mình. Thế nhưng số phận đưa đẩy chị không được làm đúng nghề đào tạo.
Sau khi tốt nghiệp, chị lên làm việc trong một công trường ở huyện Bảo Yên,
tỉnh Lào Cai. Sống trên miền biên cương đẹp về cảnh sắc, đa dạng phong phú
về bản sắc văn hóa và ấm áp về tình đất, tình người cùng với công việc hàng
ngày trên công trường, bên cạnh cái máy xay đá và cây búa lớn, cộng hưởng18
lớp bụi đá bọc trắng xóa, cứ dày mãi, dày mãi trở thành nguồn cảm cảm hứng
bất tận cho nhà văn. Chính những cảm xúc đẹp đẽ nhất về mảnh đất và con
người Lào Cai đã khiến chị cầm bút viết và phát hiện ra mình có một chút năng
khiếu văn chương. Tuy cuộc sống của chị vất vả, nhưng Tống Ngọc Hân vẫn
“ru” mình bằng những vần thơ ngây ngất, dạt dào.
Năm 2000, những “đứa con tinh thần” đầu tiên đã được tạp chí Văn nghệ
Lào Cai chọn in. Điều đó mang đến cho chị “một cảm giác rất lạ, vừa thực đến
nghiệt ngã, vừa ảo đến diệu kì. Chị đã tạm gọi đó là cõi văn” [36]. Đến năm
2002, căn nhà của Tống Ngọc Hân ở Bảo Yên bị thiêu rụi do hỏa hoạn. Những
ngày nương náu ở Hội văn nghệ tỉnh, chị bắt đầu thấy ngấm vị chua chát, cay
đắng của cuộc sống. Suy ngẫm về đời rồi chị nghĩ “viết truyện thôi, thơ không
nói hết được tâm sự của mình”. Tống Ngọc Hân bắt đầu viết truyện ngắn. Lần
lượt các truyện ngắn của chị Giấc mơ, Bàn tay người đàn ông, Chuyện kể về
đêm... ra đời trong năm 2003.
Chị viết truyện cũng đơn giản “cứ mỗi lần có cảm hứng là mình lại viết
vào cuốn sổ nhỏ, sau đó lại hoàn thành đứa con tinh thần một cách lặng lẽ như
chìm vào những số phận chung quanh mình” [31]. Tích cóp được chút ít, năm
2003, chị quyết định mở một cửa hàng kinh doanh du lịch tại thị trấn Sa Pa
“Quay cuồng với bán mua, chắp vá thổ cẩm, con nhỏ và trăm thứ công việc nội
ngoại, tui vẫn in hai tập thơ và xuất bản hai tập truyện ngắn” [31].
Đầu năm 2013, qua bạn bè, chị làm quen với các báo Văn nghệ, Văn
nghệ Công an, Tiền phong, Đại biểu nhân dân, Văn nghệ Trẻ, Lao động... Và
chỉ một năm, với hơn ba mươi truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Trung
ương, Tống Ngọc Hân được độc giả quan tâm và biết đến nhiều hơn. Giải
Nhất cuộc thi truyện ngắn của tỉnh Lào Cai năm 2012 khiến chị tự tin bước
vào cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ Quân đội 2012-2014. Từ cuộc
thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã khiến chị nảy sinh tham
vọng thử thách chính bản thân mình. Hai năm sau, Tống Ngọc Hân đã in
năm truyện ngắn và cùng với đó, chị hoàn thành hai cuốn tiểu thuyết, Huyết
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi19
ngọc và Âm binh và lá ngón. Cuối năm 2013, chị được kết nạp vào Hội Nhà
văn Việt Nam.
Sau khi vào Hội nhà văn Việt Nam, Tống Ngọc Hân lại càng hăng say
trên những trang viết. Những nỗ lực của chị được ghi nhận, trong liền ba năm
2013, 2014, 2015 truyện ngắn của Tống Ngọc Hân đã lọt top mười truyện ngắn
hay của Văn nghệ trẻ và các giải thưởng của tạp chí Văn nghệ Quân đội, của
Bộ Công an và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... cùng những giải
thưởng văn nghệ hằng năm.
Con đường đến với văn chương của Tống Ngọc Hân thật tình cờ, giản dị
và lắm gian truân. Trong mỗi tác phẩm của chị, chị thường tự ví nó như một
viên gạch. Muốn có nhiều viên gạch, thì phải viết, phải suy ngẫm, phải sáng tạo
và rồi những “viên gạch tác phẩm văn chương” của Tống Ngọc Hân sẽ nâng
bước chân của chị đến con đường thành công. Để khép lại hành trình đi tìm cái
tui của Tống Ngọc Hân, chúng tui xin mượn lời thổ lộ chính cây bút đang rất
sung sức này: “tui có thể hình dung ra cuộc sống của mình nếu một ngày nào
đó thiếu đi hạnh phúc, tình yêu hay tiền, nhưng lại không hình dung được nếu
dừng viết, dừng đam mê văn chương thì mình sẽ thế nào?”.
1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Tống Ngọc Hân
Bén duyên với văn chương theo một lẽ riêng, cùng với quá trình lao
động miệt mài, sáng tạo, nhà văn Tống Ngọc Hân đã cho ra một số lượng tác
phẩm khá đồ sộ bao gồm Truyện ngắn, thơ và tiểu thuyết:
Tập thơ đầu tay: Những nét vân tay - Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2008.
Tập truyện ngắn: Khu vườn yên tĩnh - Nhà xuất bản Phụ nữ 2009 (Giấc
mơ - Ngày mai mưa tạnh - Chuyện kể về đêm - Bàn tay người đàn ông - Linh hồn
của mẹ- Trăng đàn bà - Thằng Dúi - Cầu vòng bảy sắc - Ga nhỏ - Anh Sáu -
Rừng đầu nguồn - Vết sẹo - Dốc Phạ - Huyền thoại núi Cô - Miếu thủy thần -
Bão không số - Bát thuốc sắc - Lá thuốc - Khu vườn yên tĩnh).
Tập truyện ngắn: Sợi dây diều - Nhà xuất bản Hà Nội 2010 (Bon sai -
Anh là tất cả - Cái bóng - Dạ khúc - Đường cong - Hòn non bộ - Lá ngón -20
Ngôi chùa nhỏ bên sông - Phố thức - Ru biển - Tháng Chạp qua cửa - Tiêu và
Lừ - Xin làm cây cỏ - Căn nhà không bán - Để gió cuốn đi - Ngày cuối cùng -
Mảnh nương tốt - Người đàn ông trong tranh - Sợi dây diều).
Tập truyện: Đêm không bóng tối - Nhà xuất bản Hà Nội 2013 (Đêm
không bóng tối - Thần giữ của - Nhà ở phố Ngã Tư - Ngõ trăng - tui là ai - Bèo
dạt mây trôi - Đưa những oan hồn qua sông - Hoa bìm bìm trong mưa - Cờ
người - Chiếc lòng son- Cái thòng lọng - Song Mã - Trước ngày xuất gia - Đầm
Phượng - Nước mắt để dành - Ác mộng con rể - Đời ơi).
Tập truyện: Hồn xưa lưu lạc - Nhà xuất bản quân đội 2014 (Bạn không
thân lắm- Bến trăm năm - Điêu thuyền - Đường mưa - Hồn xưa lưu lạc - Lửa
cười lửa khóc -Mầm đắng - Máu và tuyết - Mây không bay về trời - Người săn
côn trùng - Ô cửa sổ vẫn mở - Nu na nu nống - Núi vỡ).
Tập truyện: Mây không bay về trời - Nhà xuất bản Quân đội 2015.
Tiểu thuyết: Huyết ngọc - Nhà xuất bản phụ nữ 2015.
Tiểu thuyết: Âm binh và lá ngón - Nhà xuất bản Công an 2016.
Tập truyện ngắn: Tam không - Nhà xuất bản Hội nhà văn 2016 (Đợi mùa
nắng ấm - Cổng làng - Con đường chưa đi - Con trai người Xá Phó - Dải vải
chàm bịt mắt- Góc khuất của làng - Mắt thần - Sình ca - Tam không - Đom đóm
vào nhà)

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top