Vere

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Thực chất đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì lợi ích kinh tế và để tồn tại buộc các chủ thể kinh tế phải cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực, là một trong những nguyên tắc cơ bản tồn tại khách quan và không thể thiếu được của nền sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Đối với mỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh tạo sức ép hay kích thích ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công nghệ, thiết bị sản xuất và cách quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành và giá bán hàng hoá. Cạnh tranh với các tín hiệu giá cả và lợi nhuận sẽ hướng người kinh doanh chuyển nguồn lực từ nơi sử dụng có hiệu quả thấp hơn sang nơi sử dụng có hiệu quả cao hơn. Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trọng nhất để huy động nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ còn thiếu, qua đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Trong cạnh tranh doanh nghiệp yếu kém bị đào thải, doanh nghiệp mới xuất hiện, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, nhờ đó nguồn lực xã hội được sử dụng hợp lý. Cạnh tranh tạo ra sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ cũng chính là tạo ra nhiều lựa chọn cho khách hàng, cho người tiêu dùng.
Chính vì sự cần thiết đó của cạnh tranh mà em đã chọn đề tài: “Lý luận về sự cạnh tranh và sự vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam”.
Bài tập của em gồm hai nội dung chính:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ CÁC LOẠI CẠNH TRANH
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CẠNH TRANH VÀO VIỆT NAM - NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN LÝ LUẬN CẠNH TRANH VÀO NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ CÁC LOẠI CẠNH TRANH

1.1. Quan niệm về cạnh tranh và các loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Quan niệm về cạnh tranh
a. Những hiểu biết chung về kinh tế thị trường:
* Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng phải trong những quan hệ xã hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh tế: người sản xuất hàng hoá phải mang sản phẩm dư thừa ra thị trường, kẻ mua và người bán trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường.
Kinh tế thị trường thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó không bao giờ tự sản sinh ra một hệ thống quan hệ sản xuất đầy đủ, độc lập với các cách sản xuất mà trong đó nó vận động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với hệ thống các quan hệ sản xuất và trao đổi của từng thời đại kinh tế, với các quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối của từng cách sản xuất trong lịch sử. Sự gắn bó chặt chẽ đến mức chúng ta có thể nói đến nền kinh tế hàng hoá của xã hội nô lệ; nền kinh tế hàng hóa giản đơn trong lòng xã hội phong kiến. Đến chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hoá giản đơn trở thành kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, trở thành kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Và, trong chủ nghĩa tư bản, những quan hệ kinh tế của kinh tế thị trường và của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào nhau thành một thể thống nhất. Điều đó gây nên rất nhiều sự nhầm lẫn của kinh tế học tầm thường. Chỉ có sự trừu tượng hoá khoa học của những người mác -xít mới phân tích được bản chất và đặc điểm của kinh tế thị trường của từng cách sản xuất trong lịch sử.
*Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao. Nhân loại chưa biết đến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vì ở nơi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời thì lại không phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; còn ở nơi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội chưa phát triển hoàn chỉnh.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đ ây là một điểm đột phá lý luận, một mô hình thực tiễn đang trong quá trình thử nghiệm, là sự phủ định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Đương nhiên, đó không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, tuy rằng nó có thể học hỏi nhiều điều từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất kinh tế khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bàn về bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là bàn về bản chất của những thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.Những thành phần kinh tế đó tạo thành cơ sở kinh tế của định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. ở đây, có một câu hỏi đặt ra: Phải chăng định hướng chính trị quy định bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề không đơn giản chút nào. Chắc chắn rằng, trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, chính trị phải đóng vai trò hàng đầu và chi phối toàn bộ sự phát triển của đất nước, kể cả sự phát triển kinh tế. Con đường chính trị xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại cả loài người vẫn tiếp tục vượt qua chủ nghĩa tư bản, đi lên chủ nghĩa xã hội theo cách này hay cách khác, cho dù trước mắt còn gặp vô vàn khó khăn. Tuy nhiên, định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở nước ta không phải chỉ do định hướng chính trị chi phối, mà còn được chi phối bởi cơ sơ kinh tế bên trong, được bảo đảm bởi một kết cấu kinh tế mà trong quá trình vận động, tự nó có xu hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, nó làm cho các nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh lên. Vậy cái gì là nhân tố xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta?Nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Khi lý giải mối quan hệ giữa các hình thức đó, việc lý giải mối quan hệ giữa hình thức công hữu và hình thức tư hữu tư bản chủ nghĩa, là phức tạp nhất về mặt lý luận và thực tiễn.
Cách giải thích rằng, chỉ co hình thức công hữu mới mang bản chất xã hội chủ nghĩa, cho nên việc nhanh chóng mở rộng hình thức công hữu, thu hẹp hình thức tư hữu là thực hiện yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là không đúng với lý luận Mác-Lênin và đường lối chính trị, kinh tế của Đ ảng ta trong thời kì quá độ. Đ ại hội IX của Đ ảng xác định: Chế độ công hữu sẽ từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Nhưng tư nay đến đấy còn xa, hình thức sở hữu tư nhân còn tồn tại lâu dài và còn đóng vai trò tích cực trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Để hình thức công hữu tiến lên chiếm ưu thế tuyệt đối, chắc chắn phải làm cho nó tiến triển một cách kinh tế, như một quá trình lịch sử tư nhiên, chứ không bằng biện pháp hành chính.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không chỉ khác kiểu với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thế giới mà còn khác về trình độ phát triển; nền kinh tế thị trường nước ta còn sơ khai, giản đơn, trong khi nền kinh tế thị trường thế giới đã ở trình độ phát triển cao, hiện đại. Chúng ta cần nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thị trường nước ta vào nền kinh tế thị trường thế giới, bởi vì càng hội nhập nhanh chóng bao nhiêu thì chúng ta càng sớm có chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu. Cần lưu ý rằng, trong lĩnh vực kinh tế thị trường, cũng có quy luật phát triển rút ngắn, đi tắt. đón đầu.
Từ nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến tới hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, xét từ góc độ kinh tế hàng hoá là từ kinh tế hàng hoá giản đơn của những người sản xuất nhỏ tiến tới hội nhập với nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa hiện đại, phát triển. ở đây chúng ta gặp vấn đề từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, nhưng theo tư duy mới, theo con đường kinh tế thị trường. Chúng ta sẽ đi từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ lên nền kinh tế hàng hoá lớn mang bản chất xã hội chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, học tập và sử dụng tối đa các thành tựu của nền kinh tế hàng hoá lớn tư bản chủ nghĩa.
- Tại Việt Nam hiện nay việc phát triển kinh tế thị trường là sự cần thiết khách quan do:
+ Phân công lao động xã hội hay còn gọi là phân công xã hội đã phát triển. Đó là sự tách biệt của các loại hoạt động lao động khác nhau với bốn dạng phân công lao động là: Phân công chung, phân công riêng, phân công theo lãnh thổ và phân công trong nội bộ. Việc dẫn đến phân công lao động trong xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất nhưng ngược lại phân công lao động phát triển cũng là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Nền kinh tế nước ta hiện nay tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những đặc điểm sau:
+ Trình độ kinh tế nước ta kém phát triển. Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém. Cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu, kém sức cạnh tranh. Nền kinh tế nước ta vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, phân công lao động chưa phát triển, tỷ trọng hàng hoá chưa cao đặc biệt trong nông nghiệp. Trình độ quản lý còn yếu, chúng ta còn thiếu những cán bộ quản lý kinh doanh có trình độ. Quan hệ kinh tế vẫn còn dấu ấn của nền kinh tế chỉ huy làm sơ cứng các mối quan hệ kinh doanh. Mức sống dân cư thấp dẫn đến sức mua kém kéo theo kinh tế không phát triển.
+ Nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế chuyển hoá lẫn nhau, có sự quản lý của nhà nước.
+ Cơ chế điều hành nền kinh tế là cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu.
b. Cạnh tranh - đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, động lực thúc đẩy phát triển trong kinh tế thị trường
- Mục tiêu và chức năng của chính sách cạnh tranh:
+ Chính sách cạnh tranh theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các biện pháp của nhà nước để cạnh tranh được tồn tại như một công cụ điều tiết của kinh tế thị trường. Như vậy chính sách cạnh tranh hay rộng hơn là thể chế cạnh tranh bao gồm những biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh và những biện pháp chống hạn chế cạnh tranh. Nội dung của chính sách sẽ được phân loại theo cấu trúc thị trường, hành vi ứng xử và kết quả đạt được trên thị trường. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường chỉ mang tính tương đối, chính vì vậy trong thực tế, bên cạnh những chiến lược để nâng cao vị trí tuyệt đối của mình, một số doanh nghiệp còn tìm cách làm giảm vị trí tuyệt đối của các đối thủ hay kìm chế số lượng đối thủ tham gia nhập cuộc. Như vậy cách cạnh tranh của các doanh nghiệp bao gồm cả những biện pháp tích cực lẫn biện pháp tiêu cực đối với hoạt động kinh tế. Mỗi nước đặt ra cho chính sách cạnh tranh những mục tiêu khác nhau. Việc áp dụng nguyên mẫu mô hình chính sách cạnh tranh của nước này vào mô hình của nước khác chắc chắn sẽ không thu được kết quả như mong đợi, thậm chí còn làm nảy sinh những hậu quả tai hại cho nền kinh tế nhưng có thể tham khảo để học tập. Chính sách cạnh tranh của Mỹ có ba mục tiêu: tăng phúc lợi cho người tiêu dùng, bảo vệ tự do cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh tế. ở một số nước khác, mục tiêu cạnh tranh lại nhấn mạnh tới đổi mới và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Luật cạnh tranh Canada nêu rõ mục tiêu là duy trì và khuyến khích cạnh tranh, thúc đẩy hiệu quả kinh tế.
+ Chức năng của chính sách cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Tạo nền tảng cơ bản cho quá trình cạnh tranh, duy trì và thúc đẩy quá trình cạnh tranh tự do hay bảo vệ hay thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả. Để thực hiện được các mục tiêu này, chính sách cạnh tranh đảm bảo tự do thương mại, tự do lựa chọn và tự do tiếp cận thị trường cho các doanh nghiệp. ở một số nước ví dụ như Đức, tự do hành động một cách độc lập được coi là biểu hiện dân chủ của hệ thống pháp luât kinh tế. Một số nước khác, ví dụ như Pháp đặc biệt nhấn mạnh chính sách cạnh tranh như một cách thức đảm bảo tự do kinh tế và tự do kinh tế chính là tự do cạnh tranh.
Điều tiết quá trình cạnh tranh, hướng quá trình này phục vụ cho những mục tiêu đã được định sẵn, ví dụ như đặt hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, duy trì hệ thống doanh nghiệp tự chủ, duy trì sự công bằng, trung thực trong kinh doanh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…
Chính sách cạnh tranh còn có thể giúp bình ổn giá cả trong nước và ngược lại, nếu tồn tại xu hướng độc quyền sẽ ít có khả năng thành công trong việc bình ổn giá cả.
Hạn chế các tác động tiêu cực nảy sinh do sự diều hành quá mức của nhà nước đối với thị trường như kéo dài thời gian ra quyết định của doanh nghiệp và chi phí giao dịch cao.
- Vai trò của chính sách cạnh tranh trong cải cách quy chế:
+ Quy chế có thể mâu thuẫn với chính sách cạnh tranh. Các quy chế có thể khyến khích thậm chí yêu cầu, hành vi và điều kiện vi phạm pháp luật cạnh tranh. Ví dụ như quy chế cấm bán với giá thấp hơn chi phí, mặc dù đây là biện pháp thúc đẩy cạnh tranh nhưng thường được coi là hành vi chống cạnh tranh.
+ Quy chế có thể thay thế chính sách cạnh tranh. Khi độc quyền là hình thức không thể tránh khỏi, quy chế cố gắng kiểm soát trực tiếp quyền lực thị trường thông qua ấn định giá hay kiểm soát việc nhập cuộc hay tiếp cận. Những thay đổi về kỹ thuật và các thể chế có thể dẫn tới việc xem xét lại các giả định cơ bản ủng hộ cần có quy chế là chính sách cạnh tranh và các thể chế có thể là không đủ để thực hiện nhiệm vụ ngăn cản độc quyền và lạm dụng vị thế thị trường.
+ Quy chế có thể củng cố chính sách cạnh tranh. Các quy định và các nhà lập pháp có thể cố gắng ngan cản hành vi câu kết hay lạm dụng trong một ngành nào đó. Ví dụ , quy chế có thể xác định chuẩn mực cho cạnh tranh lành mạnh hay đưa ra các quy định đảm bảo đấu thầu cạnh tranh.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh đã tương đối hoàn thiện. Trên cơ sơ các quy định này, một mặt, Cục Quản lý cạnh tranh tiến hành thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc liên quan đến hành vi phản cạnh tranh, mặt khác, Cục tích cực triển khai các chương trình phổ biến pháp luật, tham vấn và giải đáp các vướng mắc liên quan đến Luật cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp định hình.
Bài học quan trọng nhất rút ra từ thắng lợi của Nhật Bản và các nước NIC Châu á là một quan điểm luôn luôn thay đổi về lợi thế so sánh, ý nghĩa của nó đối với chính sách quốc gia, tập quán buôn bán và sau hết là cơ sở lý luận về phát triển. Những nước này đã chứng minh khá đầy đủ là chính sách quốc gia được hoạch định đúng đắn và kịp thời có thể tạo ra một lợi thế so sánh ở tầm vĩ mô và tạo điều kiện cho việc tích luỹ các nhân tố sản xuất. Mặc dù, các nhà kinh tế học từ lâu đã công nhận bản chất năng động của lợi thế so sánh nhưng thành công về cạnh tranh của Nhật Bản và các nước NIC Châu á trong hai thập kỷ vừa qua đã mang lại một ý nghĩa mới cho việc đánh giá về lý thuyết thương mại này

KẾT LUẬN
Từ sau đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều tiến bộ đáng kể, tốc độ tăng trưởng bình quân trong những năm gần đây luôn đạt mức trên dưới 7%, được xếp vào nhóm nước có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới. Tuy nhiên điều đó không nói lên được khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, đặc biệt chúng ta đang trong quá trình đàm phán để sắp sửa gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO- và trong lộ trình cắt giảm thuế quan để thực hiện gia nhập Khu vực mậu dịch tự do AFTA. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, các doanh nghiệp phải có chiến lược cạnh tranh hiệu quả để chuẩn bị đối mặt với hàng hóa nước ngoài được sản xuất trên công nghệ hiện đại nhất thế giới ở các nước phát triển nhất thế giới, và chuẩn bị bắt đầu xâm nhập thị trường thế giới bằng sức mạnh của mình trong cuộc chiến mang tính chất sống còn khi hàng rào thuế quan và hạn ngạch không còn là cản trở khi gia nhập WTO, AFTA.
Hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với một sự cạnh tranh khốc liệt trong xu thế nền kinh tế thị trường mở như hiện nay. Khi nước ta đã hoàn toàn hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thì thách thức và cơ hội xuất hiện cùng một lúc, sức mạnh cạnh tranh sẽ giành cho những ai biết tận dụng được cơ hội và sẵn sàng đối mặt thành công với thách thức.
Do trình độ và năng lực hạn chế, bài viết của em chắc sẽ khó tránh khỏi thiếu sót, mong thầy giáo thông cảm. Em xin chân thành Thank sự giúp đỡ của thầy giáo để em thực hiện đề tài này.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình kinh tế chính trị. Nhà xuất bản Quốc gia – 2002.
2. Chiến lược cạnh tranh thị trường quốc tế. Viện quản trị kinh tế Trung ương- 1995.
3. ThS. Phan Ngọc Thảo: Giảm chi phí để nâng cao hiệu quả để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
4. TS.. Vũ Anh tuấn: Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Tạp chí: Phát triển kinh tế- tháng 12/2002
5. TS. Phạm Đăng Tuất: Bàn về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Tạp chí: Phát triển kinh tế.
6. ThS. Nguyễn Hoàng Xanh: Nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế thế thế giới. Tạp chí: Phát triển kinh tế- tháng 4/2002
7. Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.-CIEM- Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương.
8. Đảng cộng sản Việt Nam – văn kiện đại hội đaị biểu toàn quốc lần thứ 8,9.


MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và các loại cạnh tranh 1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và các loại cạnh tranh 2
1.1. Quan niệm về cạnh tranh và các loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 2
1.1.1. Quan niệm về cạnh tranh 2
1.1.2. Các loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 11
1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 12
Chương 2: Sự vận dụng lý luận của cạnh tranh vào Việt Nam và những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn lý luận cạnh tranh vào nước ta trong thời gian tới 15
2.1. Thực trạng của sự vận dụng lý luận cạnh tranh vào nước ta 15
2.1.1. Đánh giá năng lực cạnh tranh của nước ta 15
2.1.2. Những yếu tố chủ yếu làm hạn chế khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ 25
2.2. Những giải pháp để vận dụng tốt hơn lý luận cạnh tranh vào nước ta 27
2.2.1. Phát triển nguồn nhân lực. 27
2.2.2. Duy trì sức cạnh tranh chống độc quyền. 31
2.2.3. Khai thác lợi thế so sánh. 33
2.2.4. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp tăng cường sức cạnh tranh 35
Kết luận 39


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top