bungchao_COol

New Member

Download miễn phí Đề án Tiền lương trong nền kinh tế quốc dân và ảnh hưởng của nó tới cung cầu lao động





Hiện nay chúng ta đang tồn tại 2 mức lương tối thiểu riêng cho 3 loại hình DN: DN Nhà nước từ tháng 1/10/2006 là 450.000 đ/tháng. DN tư nhân không được trả thấp hơn mức lương tối thiểu chung của Nhà nước. DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) mức thấp nhất là 710.000đ/tháng, cao nhất là 870.000 đ/tháng. Chúng ta sẽ xem xét một số vấn đề khi áp dụng mức lương tối thiểu khác nhau cho ba loại hình doanh nghiệp này sau đây.
Tiền lương và thu nhập của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp nói chung được cải thiện. Năm 2006, tiền lương bình quân một lao động trong doanh nghiệp Nhà nước đạt 2,1 triệu đồng mỗi tháng (những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, lao động giỏi đạt mức lương bình quân cao hơn 4 - 5 lần mức bình quân chung); trong các doanh nghiệp dân doanh, tiền lương bình quân đạt 1,6 triệu đồng một người mỗi tháng (người có trình độ chuyên môn, kĩ thuật cao, tiền lương gấp 5-6 lần mức bình quân chung); trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mức tiền lương bình quân đạt 2,2 triệu đồng một người mỗi tháng (lao động quản lí, có chuyên môn, kĩ thuật cao, lương gấp 15-20 lần so với mức bình quân chung).
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ận xác định mức lương tối thiểu chung nêu trên, từ năm 1993 đến nay khi trình Chính phủ ấn định mức lương tối thiểu chung, chúng ta đều đưa ra một miền xác định lương tối thiểu, với sự chênh lệch nhau nhiều lần giữa mức cao nhất so với mức thấp nhất (thấp nhất bằng mức bù trượt giá; cao nhất là nhu cầu tối thiểu, theo những tính toán thời gian gần đây đó là mức lương thấp nhất được áp dụng ở doanh nghiệp nhà nước 1.050.000 đồng/tháng). Với cách làm này và trong điều kiện ngân sách khó khăn thì đương nhiên quyết định chính sách là ấn định mức lương tối thiểu thuộc miền xác định gần cận dưới. Đây là nhược điểm cơ bản của việc xác định tiền lương tối thiểu ở nước ta từ năm 1993 đến nay; đồng thời do mức lương tối thiểu chung là “nền” của chế độ tiền lương đã dẫn đến chính sách tiền lương rất lạc hậu so với thực tiễn, gây khó khăn cho cải cách cơ bản chính sách tiền lương theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
3.3 .2 Xác định mức lương tối thiểu vùng
    Mức lương tối thiểu vùng có thể được xác định theo 5 yếu tố: (1) mức sống tối thiểu của người lao động trong vùng; (2) mức sống chung đạt được trong vùng (vùng mức sống); (3) mặt bằng tiền lương trong vùng; (4) giá cả tiêu dùng trong vùng; và (5) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp dẫn của vùng. 
3.3.3 Xác định mức lương tối thiểu ngành
    Mức lương tối thiểu ngành có thể được xác định theo 3 yếu tố: (1) chất lượng và điều kiện lao động theo yêu cầu của ngành; (2) quan hệ cung cầu lao động của ngành; và (3) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp dẫn của ngành.
4. Vai trò của Nhà nước
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của đất nước, là một trong những động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước. Tiền lương cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm, có ảnh hưởng to lớn đến tình hình kinh tế xã hội. Việc trả lương cho người lao động theo nguyên tắc thực hiện chính sách tiền lương thống nhất, nhưng cơ chế phân phối tiền lương được phép linh hoạt. Các cơ quan đơn vị được quản lý toàn diện các nguồn tài chính làm ra, nguồn ngân sách cấp, nguồn ngân sách hỗ trợ để chủ động chi tiêu phát triển hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ, trả lương cho cán bộ công chức. Nhà nước thực hiện vai trò giám sát và điều tiết thông qua các công cụ vĩ mô.
Theo đó, đối với khu vực sự nghiệp, thực hiện phân loại các đơn vị sự nghiệp dựa theo khả năng tự đảm bảo nguồn kinh phí hoạt động (tự đảm bảo toàn bộ, tự đảm bảo một phần, ngân sách nhà nước lo) để xây dựng, thiết kế các cách trả lương khác nhau trên cơ sở gắn với năng suất, hiệu quả từng cơ quan, đơn vị và kết quả công việc của mỗi người lao động. Trên cơ sở phân loại này, Nhà nước thực hiện trách nhiệm đầu tư, hỗ trợ và vai trò thanh tra, kiểm tra nhằm thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động. Đồng thời với việc phân loại, thực hiện cơ chế quản lý tiền lương nói trên, khẩn trương sửa đổi các quy định hiện hành về phân phối, sử dụng học phí, viện phí và các khoản thu sự nghiệp, tạo điều kiện đi vào cơ chế quản lý mới về tiền lương, thu nhập trong các lĩnh vực này. Tuy nhiên, bài học rút ra từ việc thực hiện Nghị định 10/2002/ND-CP là để tránh tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp toàn bộ của ngân sách nhà nước, cần tập trung chỉ đạo, giao trách nhiệm cụ thể cho các Bộ, ngành và địa phương trong việc giao quyền chủ động về tổ chức công việc, về quản lý và sử dụng lao động, về quản lý tài chính cho đơn vị. Qua đó tạo điều kiện cho các đơn vị tự đảm bảo kinh phí tăng thêm khi Nhà nước điều chỉnh chính sách tiền lương . Ngân sách chỉ hỗ trợ khi đã khai thác hết khả năng tại chỗ.
Đối với khu vực quản lý hành chính, cần thực hiện tinh giản biên chế và rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, chuyển bộ phận làm công tác dịch vụ sang chế độ hợp đồng thuê khoán theo công việc, triển khai mở rộng khoán biên chế và kinh phí hành chính đối với các cơ quan, đơn vị thuộc bộ, ngành và địa phương trên cả nước. Các đơn vị được chủ động sử dụng nguồn kinh phí được khoán, được quyền trả lương cao hơn mức quy định chung trên cơ sở đảm bảo hiệu quả và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
- Nhà nước đã thể hiện chính sách tiền lương làm cơ sở cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ký hợp đồng lao động, thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động.
 -   Nhà nước qui định việc xây dựng thang, bảng lương mang tính chất định hướng, giao doanh nghiệp chủ động xây dựng và trả lương phù hợp với quan hệ cung, cầu lao động trên thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp quy định các chế độ có lợi cho người lao động.
- Chính sách tiền lương do Nhà nước ban hành đã góp phần tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo vệ chính đáng quyền lợi của người lao động và từng bước nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về tiền lương trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Việc quản lý Nhà nước về tiền lương được thực hiện như sau:
Bộ lao động Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý về Nhà nước về tiền lương ở cấp cao nhất. Bộ LĐ-TBXH ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn các doanh nghiệp phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương, các thông số tiền lương và các hệ số điều chỉnh cần thiết và thông báo các thông tin cần thiết về tiền lương trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Qua đó chỉ đạo việc quản lý tiền lương của các bộ, ngành và địa phương toàn quốc
Các bộ quản lý chuyên ngành, các địa phương cấp tỉnh, thành phố có trách nhiệm và quyền hạn quản lý công tác tiền lương của các doanh nghiệp, cơ quan trong phạm vi của mình trên cơ sở chỉ đạo của Bộ LĐ-TBXH. Trong đó phải báo cáo thường xuyên lên Bộ LĐ-TBXH về công tác quản lý lao động tiền lương tại bộ, ngành mình
     Qua việc tìm hiểu cơ sở lý luận trên đây chúng ta đã có thể hiểu rõ và nắm bắt được về thị trường lao động, tiền lương và các yếu tố liên quan và mối liên hệ, tác động qua lại giữa chúng. Từ đó, chúng ta có thể áp dụng để nhận định tình hình thực tế một cách đúng đắn, trên cơ sở đó thấy được ưu nhược điểm và đề ra các biện pháp khắc phục.
Thực trạng tiền lương tối thiểu và tác động qua lại giữa tiền lương tối thiểu và các yếu tố trên thị trường lao động Việt Nam hiện nay
1. Cải cách tiền lương tối thiểu ở Việt Nam
 Từ năm 1993 trở lại đây, Nhà nước quy định mức lương tối thiểu và được điều chỉnh từng năm theo mức độ trượt giá để bù đắp tiền lương thực tế và cải thiện đời sống theo mức độ tăng trưởng GDP. Cụ thể là:
+) Năm 1993 :          120.000đ/tháng
+) Năm 1997:          144.000đ/tháng
+) Năm 1999:...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top