peogar_oba

New Member

Download miễn phí Bài giảng Tác động của con người đến môi trường vùng ven bờ





Tác động rõ ràng nhất và được quan tâm nhiều nhất là rừng ngập mặn đã bị biến
đổi thành các ao nuôi. Sự suy thoái rừng ngập mặn cùng với sự phát triển của nuôi tôm
xảy ra ở Châu Á, Trung Mỹ. Có khoảng 1-1,5 triệu ha rừng ngập mặn đã bị chuyển đổi
thành ao nuôi tôm trên phạm vi toàn thế giới, trong đó, riêng ở Châu Á, đã có hơn
500.000 ha rừng ngập mặn đã bị chuyển đổi thành ao nuôi tôm nước lợ. Việc nuôi tôm
gia tăng ngoại tệ cho các nước phát triển, nhưng việc mất mát nơi ở nhạy cảm là khó bù
đắp. Rừng ngập mặn có vai trò trong việc chống xói mòn, duy trì chất lượng nước ven bờ
và là nơi sinh sản của nhiều loài sinh vật. Rừng ngập mặn cung cấp các nguồn tài nguyên
tái tạo như gỗ, sợi, than đá,. cho cộng đồng người dân địa phương. Chuyển đổi thành ao
nuôi tôm, sinh cảnh này bị phá trụi và rất khó để phục hồi. Tiếc rằng các ao nuôi tôm
thường chỉ sinh lợi trong thời gian ngắn do đấy chính là đối tượng của mầm bệnh và giá
tôm hạ xuống trên thị trường. Việc quay trở lại sự đánh bắt truyền thống không phải luôn
luôn dễ dàng do mất đi các khu rừng ngập mặn, có nghĩa là mất đi môi trường nuôi
dưỡng,là nguồn bổ sung quan trọngcho cácloài thuỷsản tự nhiên.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

o ra những áp lực cho việc cung cấp các dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Mật độ thấp có nghĩa
là giá trên mỗi đơn vị cao đối với việc cung cấp và duy trì các dịch vụ và cơ sở hạ tầng
như đường sá, cấp nước và giáo dục. Ngoài ra, cư dân ở các vùng này thường trông đợi
cao hơn về các dịch vụ sẽ được cung cấp. Sự trông đợi như vậy thường biến thành các
yêu cầu đối với chính quyền địa phương và các người cung cấp các dịch vụ khác đáp ứng
tăng thêm các điều kiện vật chất.
II. Nông nghiệp
Cũng như các nơi khác, nông nghiệp ở vùng ven bờ có vai trò quan trọng trong việc
chiếm dụng đất. Vùng ven bờ có các điều kiện khí hậu và đất đai thuận lợi cho nông
nghiệp. Ngoài chức năng hết sức rõ ràng là cung cấp lương thực cho cộng đồng ven bờ,
nông nghiệp cũng tạo ra nguyên vật liệu cho công nghiệp ở các thành phố cảng. Sản
phẩm nông nghiệp có thể tìm thấy trong các thị trường du lịch, mặc dù các sản phẩm này
không phải luôn luôn chiếm vị trí ưu thế. Nông nghiệp cũng tạo ra kế sinh nhai cho cộng
đồng địa phương và bao gồm cả cư dân ở các thành phố ven bờ.
Nông nghiệp vùng ven bờ thường có những lợi ích từ các điều kiện môi trường
thuận lợi, từ các vùng đất tốt và sự giao thông liên lạc của biển cũng như từ sự phát triển
của công nghiệp và du lịch ven bờ. Tuy nhiên, nông nghiệp ven bờ cũng phải chịu áp lực
liên quan đến trạng thái ở gần với biển bao gồm nguy cơ của việc mặn hoá không khí và
nước; chất lượng nước kém và không an toàn xuất phát từ các hoạt động ở vùng thượng
lưu; sự cạnh tranh gay gắt về đất ở vùng ven bờ.
Lĩnh vực nông nghiệp cũng ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của các lĩnh vực khác.
Các mối tương tác này có thể tích cực nhưng thường là tiêu cực và xoay quanh các cạnh
tranh về đất, nước, nguồn vốn và lao động.
Tác động tiêu cực của nông nghiệp đối với các lĩnh vực khác bao gồm: việc làm ô
nhiễm nghề cá thông qua các hoá chất dùng trong nông nghiệp và làm nghẽn bùn đối với
các rạn san hô và các cảng do việc xói mòn đất. Mất nơi ở và suy giảm đa dạng sinh học
vùng ven bờ cũng có thể xảy ra. Ngược lại, nông nghiệp ven bờ cũng có thể bị ảnh hưởng
từ các ô nhiễm xuất phát từ các hoạt động ở vùng ven bờ hay thậm chí có thể gây ra các
tác động tiêu cực do chính các hoạt động của nó, ví dụ như hoạt động tưới tiêu không
thích hợp có thể dẫn đến việc nhiễm mặn nước biển.
Để có thể có kế hoạch thống nhất của nông nghiệp trong kế hoạch tổng thể của
vùng ven bờ, giai đoạn đầu tiên là thu thập các thông tin thích đáng và hữu ích. Các thông
tin này bao gồm các đặc điểm môi trường kinh tế xã hội, sinh học, vật lý; mối tương tác
giữa các lĩnh vực, sự quản lý và sự cưỡng ép, các cơ hội và khả năng lựa chọn trong các
lĩnh vực. Giai đoạn tiếp theo là vạch ra kế hoạch liên quan đến các đặc điểm đặc biệt của
nền nông nghiệp ven bờ, trong khi vẫn bảo đảm kế hoạch này phù hợp với mục tiêu tổng
thể của quốc gia về nông nghiệp. Trong giai đoạn này, các biện pháp giảm thiểu hay
tránh các tác động tiêu cực đến các lĩnh vực khác phải được trình bày. Điều đó có thể
phải rà xét lại kinh phí, việc đánh thuế và các qui định trong khi trình bày các dịch vụ hổ
trợ và xem lại cơ cấu hành chính. Kết quả có thể thay đổi về mô hình sản xuất và phương
pháp canh tác. Trong quá trình thực hiện, các người cùng tham gia và các bên liên quan
sẽ được thăm dò và cần duy trì mối liên lạc thích đáng với các Bộ, Ngành của các lĩnh
vực khác.
Các kế hoạch phát triển nông nghiệp vùng ven bờ sẽ trình bày các đặc điểm đặc
biệt về nông nghiệp của vùng, mối tương tác với các lĩnh vực khác và tầm quan trọng của
các hoạt động bền vững.
III. Du lịch và giải trí
Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp không những chứa đựng trong đó những
giá trị kinh tế đơn thuần mà cả những giá trị về lịch sử, văn hóa của một vùng miền. Du
lịch ở những vùng ven bờ đang là nguồn thu nhập cao cho các nước có vùng ven bờ. Tại
đây, người ta sẽ được thưởng thức những phong cảnh đẹp ở những vùng cửa sông ven
biển, những bãi biển tuyệt vời, các đảo đá với đầy hang động, bờ cát mịn, vùng đầm phá,
rừng ngập mặn, các rạn san hô,... Vùng ven bờ là điều kiện lý tưởng để phát triển tiềm
năng du lịch, nghĩ mát và điều dưỡng. Đi cùng theo các hoạt động dịch vụ phục vụ cho
du lịch giải trí như là bơi thuyền thưởng ngoạn, lặn, lướt sóng, câu cá tắm biển, ngắm san
hô,... Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đem lại, thì du lịch giải trí đang gây ra những tác
động ảnh hưởng đến môi trường ven bờ. Các hoạt động của con người trong lĩnh vực này
đã góp phần làm cho môi trường ven bờ bị suy thoái. Các tác động tiêu cực của du lịch
đến môi trường vùng ven bờ có thể kể là :
• Khai thác quá mức và không hợp lý hải sản phục vụ nhu cầu thưởng thức đặc
sản biển cho du khách. Trong những năm gần đây, năng suất đánh bắt một số
nghề bị giảm sút nghiêm trọng (nhất là các nghề hoạt động ven bờ có độ sâu
dưới 30 m), sản lượng khai thác các loại hải sản chưa đến tuổi trưởng thành
chiếm khá cao, đặc biệt một số tôm cá, nhuyễn thể, các sinh vật quý hiếm. Việc
phá hủy san hô thông qua sử dụng thuốc nổ và lấy san hô làm cạn kiệt nguồn
tôm giống và các đàn cá gần bờ.
• Buôn bán các hàng mỹ nghệ từ hải sản phục vụ khác du lịch: đây là nguyên
nhân dẫn đến cạn kiệt một số loài san hô, trai ốc, tôm hùm và đồi mồi. Việc
buôn bán cá cảnh biển phát triển ở một số trung tâm du lịch kéo theo việc đánh
bắt cá quá mức trên các rạn san hô. Sự khai thác quá mức và không hợp lý ở
vùng biển ven bờ đang là mối đe dọa lớn cho nhiều loài sinh vật biển, đó cũng
là nguyên nhân làm mất cân bằng tự nhiên của các quần xã ven bờ.
• Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động du lịch giải trí: lợi thế
kinh tế trực tiếp cũng được tạo ra bởi các hoạt động du lịch và theo đó đã có sự
bùng nổ về du lịch với việc xây dựng hàng loạt khách sạn, nhà nghỉ, cửa hàng
ăn uống và các bãi biển nhân tạo dọc bờ biển đã được thông báo là mối đe dọa
lớn nhất đối với môi trường ven biển thế giới. Các diện tích đất hay mặt nước
vùng ven bờ sẽ được dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm giảm dần diện tích
đất và mặt nước. Hiện tại các rừng đước che phủ trên 16 triệu ha ven bờ biển,
song diện tích đang thu hẹp hàng năm với tốc độ 2%. Chỉ trong mấy thập kỷ
cuối cùng lại đây, hoạt động đánh bắt và nuôi hải sản của con người (phục vụ
cho nhu cầu hàng ngày và du lịch, giải trí,...) đã phá hủy và làm thay đổi tới
50% diện tích các rừng đước trên thế giới. Điều tồi tệ hơn là trong tổng diện
tích các rừng đước còn tồn tại hiện nay trên phạm vi toàn cầu chỉ có 1% được
bảo vệ.
• Hoạt động tham quan, du lịch cũng làm ảnh hưởng đến số lượng, nơi cư trú và
sinh sản của một số loài chim...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top