daomytriduc

New Member

Download Tiểu luận Thừa kế quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng miễn phí





Diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo Thông tư số 594 là phù hợp và được áp dụng ở nước ta trong giai đoạn 1968-1981. Một mặt nó phản ánh tính chất của quan hệ thừa kế là loại quan hệ tài sản đặc biệt có mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc trong gia đình Việt Nam, mặt khác, nó phù hợp với nguyện vọng của công dân muốn tài sản của mình để lại sau khi chết sẽ cho những người thân gần nhất với mình thừa hưởng và nếu không có những người này thì Nhà nước hay tập thể mới tiếp nhận di sản của người chết. Trong giai đoạn này, những người khác như chú, cô, dì, bác, cậu, cháu họ, anh chị em họ, các cụ nội các cụ ngoại đều không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Diện thừa kế theo pháp luật.
Một trong những vấn đề chính yếu của chế định thừa kế theo pháp luật là việc xác định diện thừa kế ( xác định phạm vi những người được thừa kế theo pháp luật hưởng di sản của người chết để lại. Về diện và hàng thừa kế chỉ được đặt trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Về diện thừa kế, qua các chế độ xã hội cùng có một đặc điểm chung là: chủ yếu do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối; mặt khác nó cũng tuỳ từng trường hợp vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội và còn dựa trên những quy định pháp luật của mỗi chế độ xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật lại được quy định tại diện rộng hẹp khác nhau.
Ở nước ta, trước năm 1945 dưới chế độ cũ, nhất là dưới chế độ phong kiến với ý thức bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột của mình, giai cấp thống trị xem quyền tư hữu là một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Ngay trong quan hệ gia đình thì quan hệ huyết thống cũng được coi trọng và đề cao, còn quan hệ hôn nhân thì bị xem nhẹ. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ nặng nề đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến chế định thừa kế. Thừa kế di sản trong thời kỳ này được xem như một phương tiện để duy trì và bảo vệ khối tài sản của nội tộc, và do những người trong nội tộc của người đề lại di sản được ưu tiên thừa hưởng. Địa vị của người vợ trong quan hệ gia đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong những quan hệ xã hội thông thường và trong cả quan hệ thừa kế.
Trong những quy định trong Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ thì diện thừa kế theo pháp luật được quy định bao gồm: các con đẻ, con nuôi, các cháu, cha, mẹ, ông, bà nội, các cụ nội, anh, chị, em ruột của người để lại di sản. Chỉ khi nào không còn thân thuộc bên họ nội của người để lại di sản thì khi đó di sản thuộc về bên họ ngoại của người để lại di sản và cũng gồm những người tương ứng như bên họ nội của người đó được hưởng. Theo luật của chế độ thực dân, phong kiến thì diện thừa kế còn bao gồm con ngoại hôn của người quá cố được khai nhận hợp lệ và những người còn được sinh ra khi cha hay mẹ còn độc thân cũng có quyền thừa kế như con ngoại hôn. Nhưng con không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người mẹ đẻ đã tái giá qua đời. Người vợ chính của người quá cố được hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp không còn người thân thuộc bên chồng. Ngược lại, người vọ thứ không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chồng, lợi ích của người vợ thứ chỉ được ở lại nhà chồng, hưởng lương thực và tiền chi dùng cho sinh hoạt hàng ngày mà thôi. Người chồng thuộc diện thừa kế di sản của người vợ chính qua đời trước, quyền này của người chồng không được đáp ứng trong trường hợp người vợ thứ chết trước mà có con. Một người thuộc diện thừa kế nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế và không bị toà án tước quyền thừa kế. Những Bộ luật của chế độ cũ quy định về diện thừa kế theo nguyên tắc ưu tiên bảo vệ quyền thừa kế của những người thuộc họ nội của người để lại di sản và có sự phân biệt giữa vợ cả và vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết trước. Quyền lợi của người vợ goá chỉ được bảo vệ sau các con, cháu, cha, mẹ, ông, bà, các cụ, anh, chị, em, ruột của người để lại di sản.
Qua sự phân tích trên đây, sơ bộ chúng ta cũng có thể thấy sự mất bình đẳng, tư tưởng trọng nam khinh nữ trong chế định thừa kế của pháp luật thời kỳ phong kiến. Tóm lại diện thừa kế theo pháp luật của chế độ cũ chủ yếu dựa vào quan hệ huyết thống nội tộc, quan hệ huyết thống ngoại tộc chỉ được xét vào diện thừa kế khi không còn người thừa kế thuộc quan hệ huyết thống nội tộc.
Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ cũ, pháp luật thừa kế của nước ta đã xoá bỏ tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ và quy định người vợ goá hay người chồng goá thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chồng hay người vợ chết trước. Vào những năm đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, pháp luật thừa kế của chế độ cũ vẫn được áp dụng, trừ những điều khoản trái với nền độc lập và dân chủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trong hoàn cảnh đó, diện thừa kế theo pháp luật ở nước ta vẫn dựa theo những quy định của pháp luật thuộc chế độ cũ để xác định. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 9 Hiến pháp năm 1946, người “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”, trong đó có quyền thừa kế như những người con khác của người để lại di sản. Điều 9 của Hiến pháp năm 1946 được xem như một quy định mang tính nguyên tắc chi phối quyền thừa kế di sản của người chồng goá hay người vợ goá trong việc hưởng di sản của người chồng hay người vợ chết trước. Đặc biệt, khi Sắc lệnh số 97- SL ngày 22-5-1950 được ban hành, diện thừa kế theo pháp luật được chính thức quy định tại Điều 10 và Điều 11 của Sắc lệnh gồm:
Con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản.
Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới bước đầu đã được xác định theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, gồm những người có quan hệ gần gũi nhất của người để lại di sản. Nếu trong thời kỳ thực dân, phong kiến ở nước ta, pháp luật có những quy định ưu tiên bảo vệ quyền thừa kế của những người có quan hệ huyết tộc nội tộc với người để lạ di sản thì ở chế độ mới, người vợ hay người chồng của người đó được pháp luật quy định họ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Theo những quy định của Sắc lệnh số 97- SL thì quan hệ hôn nhân được khẳng định là căn cứ xác định người vợ hay người chồng của người chết thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người đó.
Quy định tại Điều 10 và điều 11 của sắc lệnh số 97- SL về diện thừa kế theo pháp luật đã xoá bỏ tận gốc những quy định bất bình đẳng về thừa kế trong các Bộ luật dân sự của chế độ cũ. Thực chất, sắc lệnh số 97- SL đã cụ thể hoá Hiến pháp năm 1946 về quyền bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ gia đình. Có thể khẳng định rằng điều 10 và điều 11 của Sắc lệnh số 97-SL đã đặt nền móng đầu tiên về cơ sở xác định diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới.
Diện thừa kế đước mở rộng một bước khi Bộ tư pháp ban hành Thông tư số 1742 để hướng dẫn toà án các cấp trong việc giải quyết những tranh chấp về thừa kế, theo đó những người thuộc diện thừa kế gồm có: Vợ, chồng, các con đẻ, các con nuôi, các cháu, các chắt, cha, mẹ của người để lại di sản và những người thừa kế khác. Tuy nhiên, “những người thừa kế khác” là ai thì trong thông tu 1742 đã không chỉ rõ.
Diện thừa kế theo pháp luật trong các trường hợp cụ thể cũng được quy định rất rõ ngay trong một số văn bản. Ví dụ: Tại Điều 1 của Nghị định số 19-CP ngày 29-06-1960 và tại điều 5 Nghị đ
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top