puppy_s2

New Member

Download Tiểu luận Một số ý kiến về thành lập toà án cho người chưa thành niên ở Việt Nam miễn phí





Theo quy định, các quốc gia đã phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em phải báo cáo trước Uỷ ban về quyền trẻ em của Liên hiệp quốc theo định kỳ về việc thực hiện Công ước và tình trạng quyền trẻ em ở quốc gia đó. Trong các lần đối thoại với Chính phủ Việt Nam qua các báo cáo thực hiện Công ước, Uỷ ban Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc đã đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị về việc cải thiện hệ thống tư pháp cho NCTN, trong đó có khuyến nghị về sự cần thiết “thành lập toà án cho NCTN” (2).
Vì vậy, thành lập toà án NCTN ở nước ta chính là một trong những biện pháp tổ chức – pháp lý đặc biệt góp phần hoàn thiện hệ thống tư pháp cho NCTN và cũng là sự khẳng định mạnh mẽ cam kết chính trị – pháp lý của Nhà nước ta trong việc thực hiện Công ước về quyền trẻ em.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Một số ý kiến về thành lập toà án cho người chưa thành niên ở Việt Nam Luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án. Một trong những vấn đề liên quan đến hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án ở nước ta hiện nay, theo chúng tui là cần khẩn trương nghiên cứu thành lập toà án cho người chưa thành niên (NCTN). Trong bài viết này, chúng tui xin nêu một số ý kiến về sự cần thiết phải thành lập toà án cho NCTN, về các mô hình toà án cho NCTN trên thế giới và một số kiến nghị về vấn đề này ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. I. Sự cần thiết thành lập toà án cho người chưa thành niên tại Việt Nam Trước hết, cần khẳng định rằng quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ trẻ em là quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Vì vậy, quan tâm giáo dục, bảo vệ trẻ em nói chung, người chưa thành niên nói riêng là một hệ thống chính sách nhất quán của Việt Nam. Ngày 20/11/1989, Việt Nam đã cùng với 193 nước và vùng lãnh thổ tham gia ký kết Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em (gọi tắt là Công ước về quyền trẻ em). Việt Nam cũng là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này ngay từ ngày 20/02/1990. Tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người nói chung, quyền trẻ em nói riêng, Việt Nam ý thức sâu sắc đó là sự cam kết chính trị – pháp lý của Nhà nước ta trong sự nghiệp bảo vệ quyền con người, quyền trẻ em trước cộng đồng thế giới. Công ước về quyền trẻ em đòi hỏi các quốc gia thành viên phải có luật pháp, thủ tục, các cơ quan và cơ sở đặc biệt để giải quyết vấn đề NCTN (1) vi phạm pháp luật. Những quy định pháp luật và thủ tục đặc biệt này phải đảm bảo rằng mọi NCTN vi phạm pháp luật được đối xử phù hợp với phẩm giá của họ, củng cố thái độ tôn trọng của các em đối với quyền con người và quyền tự do cơ bản của người khác, cân nhắc đến độ tuổi và nguyện vọng của NCTN cũng như mong muốn được sớm phục hồi và tái hoà nhập cộng đồng. Theo quy định, các quốc gia đã phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em phải báo cáo trước Uỷ ban về quyền trẻ em của Liên hiệp quốc theo định kỳ về việc thực hiện Công ước và tình trạng quyền trẻ em ở quốc gia đó. Trong các lần đối thoại với Chính phủ Việt Nam qua các báo cáo thực hiện Công ước, Uỷ ban Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc đã đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị về việc cải thiện hệ thống tư pháp cho NCTN, trong đó có khuyến nghị về sự cần thiết “thành lập toà án cho NCTN” (2). Vì vậy, thành lập toà án NCTN ở nước ta chính là một trong những biện pháp tổ chức – pháp lý đặc biệt góp phần hoàn thiện hệ thống tư pháp cho NCTN và cũng là sự khẳng định mạnh mẽ cam kết chính trị – pháp lý của Nhà nước ta trong việc thực hiện Công ước về quyền trẻ em. Thứ hai, do các nguyên nhân và điều kiện khác nhau, nên nhiều NCTN phải tham gia vào các thủ tục tố tụng xét xử của toà án với tư cách là bị cáo, người bị hại hay người làm chứng v.v. Xuất phát từ đặc điểm NCTN là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần; là người đang ở giai đoạn phát triển và hình thành nhân cách và chưa thể có suy nghĩ chín chắn khi quyết định hành vi của mình, nên Nhà nước ta đã có chính sách hình sự và tố tụng hình sự “đặc biệt” áp dụng đối với NCTN phạm tội. Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS) đã dành một chương riêng (Chương X, từ Điều 68 đến Điều 77) để quy định đối với NCTN phạm tội, trong đó quy định nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội, các biện pháp tư pháp và các hình phạt áp dụng đối với họ chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) cũng xác định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là loại “Thủ tục đặc biệt” và quy định thành chương riêng (Chương XXXII từ Điều 301 đến Điều 310), trong đó đòi hỏi: “Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố tụng đối với NCTN phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên” (khoản 1 Điều 302 BLTTHS). Nhưng hạn chế của “thủ tục đặc biệt” này là: Một mặt, thủ tục tố tụng quy định tại Chương XXXII của BLTTHS mới chỉ áp dụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN, mà chưa có quy định thủ tục tố tụng áp dụng với người bị hại, người làm chứng là NCTN; Mặt khác, do chưa tổ chức toà án chuyên biệt cho NCTN, nên ở nước ta trong thực tế Thẩm phán được phân công xét xử NCTN phạm tội không có những khác biệt cần thiết so với những người thành niên phạm tội. Vì cho đến nay do chưa có quy định cụ thể nào về tiêu chuẩn, yêu cầu đào tạo bắt buộc đối với thẩm phán được giao nhiệm vụ chuyên xét xử bị cáo chưa thành niên nên thẩm phán – chủ toạ phiên toà cấp sơ thẩm, các thẩm phán của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm là những người vừa xét xử các vụ án do người thành niên phạm tội là chủ yếu, vừa xét xử các vụ án do NCTN phạm tội, cho nên không phải họ đều là những người “có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN” như khoản 1 Điều 302 BLTTHS hiện hành quy định. Thứ ba, cũng do chưa có toà án cho NCTN và văn bản pháp luật tố tụng riêng tương ứng cho loại Toà án chuyên biệt này nên ở nước ta chưa có những quy định pháp luật cụ thể bảo đảm môi trường toà án và các thủ tục phiên toà, cũng như cách trang trí, các vật dụng bố trí tại phòng xử án đối với NCTN … phải khác biệt đối với người thành niên, mà cơ bản là giống nhau. Khác với Toà án vị thành niên ở nhiều nước trên thế giới, toà án nước ta không bố trí khu chờ riêng biệt để NCTN và gia đình các em có thể ngồi đợi, cách ly với những bị cáo là người thành niên; việc xét xử được tiến hành ở phòng xử án chính thức dành chung cho cả người thành niên và NCTN, chứ không phải được tiến hành xét xử trong văn phòng của thẩm phán hay một phòng làm việc bình thường của toà án như ở nhiều nước. Thủ tục phiên toà xét xử đối với NCTN (bị cáo, người bị hại và người làm chứng) hiện nay về cơ bản như xét xử với người thành niên: Khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, thì mọi người phải đứng dậy, khi trình bày ý kiến phải đứng trả lời, bị cáo là NCTN cũng giống như người thành niên đều phải đứng trước “vành móng ngựa” để trả lời, không được ngồi cạnh cha mẹ hay luật sư của mình v.v… Tuy Điều 307 BLTTHS quy định: “Trong trường hợp cần thiết, toà án có t...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top