vespa_standard

New Member

Download Tiểu luận Xung đột quan điểm trong việc xác định tội danh miễn phí





Hiện nay, những quy định của Bộ luật hình sự dù đã được sửa đổi và hoàn thiện nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải thích luật, đặc biệt là Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, đã ra nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng luật khi xét xử. Tuy nhiên, nhiều nội dung có liên quan đến định tội vẫn chưa được nhận thức một cách thống nhất, kể cả trong giới nghiên cứu lẫn những người làm công tác thực tiễn. Ví dụ, dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”, “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm”, “người phạm tội là người già”, “lợi ích vật chất khác” trong các tội phạm hối lộ, “tài sản chiếm đoạt” trong tội tham ô tài sản, “hậu quả” trong các tội phạm vi phạm quy định về an toàn giao thông, tội phạm về môi trường, “hàng phạm pháp” hay “hành cấm” có số lượng lớn”, “thu lợi bất chính lớn” v.v Đó là một số trong số rất nhiều các dấu hiệu mà luật chưa được giải thích rõ. Thực trạng này đã tạo ra sự không thống nhất trong việc áp dụng các dấu hiệu này để định tội trong thực tiễn. Vì thế, yêu cầu đặt ra là các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực này phải luôn theo sát thực tiễn nghiên cứu và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Nếu phát hiện vấn đề nào chưa rõ mà thực tiễn đặt ra thì cần có văn bản hướng dẫn kịp thời.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

của A sẽ được định theo QPPL quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự. QPPL quy định tại Điều 99 là QPPL riêng trong quan hệ với QPPL chung (Điều 98). Quy tắc này xuất phát từ cơ sở phương pháp luận là cái riêng phải chứa đựng tất cả những dấu hiệu của cái chung, đồng thời cái riêng còn chứa đựng những dấu hiệu đặc thù của mình.
Đối với các trường hợp cạnh tranh giữa các QPPL riêng thì hơi phức tạp hơn. Một trong số các dạng cạnh tranh giữa các QPPL riêng thường gặp là cạnh tranh của các QPPL với các tình tiết định khung tăng nặng và các tình tiết định tội. Các QPPL này có thể cùng nằm trong một điều luật quy định về tội phạm. Ví dụ như QPPL quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự. Có thể mô tả bằng trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em có tình tiết định khung tại khoản 3 là “Nhiều người hiếp một người” nhưng người bị hại ở đây lại là “trẻ em chưa đủ 13 tuổi” (tình tiết định tội tại khoản 4). Cũng có thể các QPPL được quy định tại hai điều luật khác nhau. Chẳng hạn, B giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (tội phạm được quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự) nhưng người mà B giết lại là “mẹ” mình và đang là “phụ nữ có thai” (B biết) (các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự). Giải quyết trường hợp cạnh tranh này, lý luận Luật hình sự và thực tiễn thừa nhận quy tắc là áp dụng QPPL có chứa đựng tình tiết định tội để định tội cho hành vi phạm tội. Điều này xuất phát từ thực tế là tình tiết định tội bao giờ cũng có ảnh hưởng lớn hơn tới tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội so với tình tiết định khung, do đó tình tiết định tội có giá trị pháp lý cao hơn tình tiết định khung.
Cũng có trường hợp cạnh tranh QPPL xảy ra giữa các QPPL riêng với các tình tiết định khung tăng nặng. Chẳng hạn, C cướp tài sản thuộc trường hợp “có sử dụng hung khí” và “tái phạm nguy hiểm” (các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự), và tài sản mà C cướp “có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên” (tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự). Trường hợp này, quy tắc để giải quyết cạnh tranh giữa các QPPL là ưu tiên áp dụng QPPL có chứa các tình tiết có giá trị tăng nặng cao nhất. Điều này xuất phát từ cơ sở rằng với việc xây dựng tình tiết có giá trị tăng nặng cao hơn, các nhà làm luật đã bao quát tất cả các trường hợp phạm tội có tình tiết tăng nặng tương tự thấp hơn. Như vậy, với ví dụ trên, chúng ta phải áp dụng khoản 4 Điều 133 mới được xem là chính xác. Cần lưu ý rằng, trong trường hợp này, chúng ta không thể đặt ra vấn đề “tổng hợp hình phạt” của cả hai khoản để áp dụng đối với người phạm tội.
Xung đột quan điểm trong định tội thường không diễn ra gay gắt trong trường hợp cạnh tranh QPPL hình sự bởi vì dù sao cũng đã tồn tại các quy tắc truyền thống để giải quyết chúng. Tuy nhiên, trong trường hợp các cơ sở để định tội không rõ ràng thường là nguyên nhân tạo ra bất đồng quan điểm về định tội. Bởi vì, trong trường hợp các cơ sở để định tội không rõ ràng sẽ dẫn đến mỗi người sẽ có sự nhận thức khác nhau về chúng.
2) Cơ sở để định tội không rõ ràng có thể là do QPPL hình sự không rõ ràng (thiếu dấu hiệu pháp lý) hay là những tình tiết bên trong của hành vi phạm tội không được bộc lộ rõ:
2.1. Trường hợp QPPL không rõ ràng có thể do QPPL không rõ nghĩa hay QPPL có nội dung không đầy đủ. Nếu gặp phải một QPPL không rõ nghĩa trong khi định tội, chúng ta có thể có nhiều cách giải quyết:
a) Chúng ta xem lại các công trình chuẩn bị để Bộ luật hình sự được đi vào thực tiễn như: các dự thảo Bộ luật hình sự, tờ trình Quốc hội để thông qua Bộ luật hình sự, Biên bản thảo luận, góp ý kiến thông qua Bộ luật hình sự…, đặc biệt là Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự. Thông qua các công trình đó, chúng ta có thể hiểu thêm ý nghĩa mà nhà làm luật muốn “gán” cho các QPPL mà chúng ta đang áp dụng. Chẳng hạn, vụ án của Nguyễn Văn T(Tạp chí Toà án nhân dân số 10/2003, tr.12): Ngày 12/03/2003, T trộm cắp tài sản trị giá 270.000 đồng. Về nhân thân của T: Tháng 11/1999, T bị Toà án xử phạt 12 tháng tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân” (giá trị tài sản chiếm đoạt là 300.000 đồng) (khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự 1985), chấp hành xong hình phạt tháng 7/2000; Tháng 12/2001, T bị Toà án xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” (khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999) có kèm áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm”. Có ý kiến tranh luận cho rằng T phạm tội lần này phải áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138 (tái phạm nguy hiểm) vì tháng 12/2001 đã bị áp dụng tình tiết “tái phạm” nay còn phạm tội “do cố ý”. Quan điểm khác cho rằng T chỉ bị áp dụng khoản 1 Điều 138 với lý do tài sản mà T trộm có giá trị dưới 500.000 đồng nên cần có dấu hiệu “đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xoá án tích” thì hành vi mới cấu thành tội phạm, và dấu hiệu này đã được sử dụng để định tội thì không dùng để định khung tăng nặng nữa. Quan điểm thứ ba cũng cho rằng T phạm tội thuộc khoản 1 Điều 138 nhưng với lý do là tháng 12/2001, Toà án áp dụng tình tiết “tái phạm” không đúng nên không làm cơ sở cho việc áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” tại điểm c khoản 2 Điều 138. Trong trường hợp này, nếu chúng ta chỉ phân tích Điều 7 Bộ luật hình sự (hiệu lực về thời gian) để tranh luận thì sẽ gặp lúng túng vì nội dung của nó không rõ ràng. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem điểm c, d mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 1999 thì sự việc trở nên đơn giản. Hành vi phạm tội của T bị xử phạt vào tháng 11/1999 theo khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự 1985 không là cơ sở để áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” cho lần phạm tội và bị xử phạt vào tháng 12/2001 vì hành vi phạm tội này (theo Bộ luật hình sự 1985) không phải là tội phạm theo Bộ luật hình sự 1999 và do đó lần phạm tội đó đã được đương nhiên xoá án tích. Vì thế, tình tiết “tái phạm” mà Toà án áp dụng vào tháng 12/2001 là trái pháp luật không thể làm cơ sở để áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” và lần này T chỉ bị truy cứu theo khoản 1 Điều 138 là hoàn toàn chính xác.
b) Chúng ta có thể dựa theo tiền lệ xét xử để làm cho các cơ sở định tội trở nên rõ ràng. Kết quả của thực tiễn xét xử cũng là một nguồn làm cho những dấu hiệu pháp lý để định tội vốn chưa rõ ràng trong luật sẽ trở nên sáng tỏ, cụ thể. Kết quả của thực tiễn xét xử đề cập ở đây có thể được thể hiện trong các văn bản hướng dẫn áp dụng luật (Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao), Thông tư liên tịch, Thông tư liên ngành, Công văn… (của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an…), trong các Báo cáo tổng kết ngành Tòa án vào cuối năm…v.v… Chẳng hạn như trong các tội...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top