Phillips

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I 6
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP 6
1.1.Doanh nghiệp và nhu cầu định giá doanh nghiệp 6
1.1.1 Định giá doanh nghiệp là gì? 6
1.1.2 Nhu cầu định giá doanh nghiệp 6
1.1.3 Mục tiêu và yếu cầu của hoạt động định giá doanh nghiệp 7
1.2. Các yếu tố tác động tới giá trị doanh nghiệp 9
1.2.1 Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô 9
1.2.2.Các yếu tố thuộc môi trường ngành 11
1.2.3. Môi trường nội bộ doanh nghiệp 12
1.3. Các phương pháp định giá doanh nghiệp 14
1.3.1.Phương pháp giá trị tài sản ròng 14
1.3.2.Phương pháp định giá chứng khoán 21
1.3.3.Phương pháp định lượng GOODWILL 25
1.3.4.Phương pháp định giá dựa vào chỉ số PER 30
CHƯƠNG II 33
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 33
2.1. Cơ sở pháp lý 33
2.1.1. cách định giá 35
2.1.2. Xử lý các tồn tại về tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp 37
2.1.3. Phương pháp định giá 38
2.1.4. Xác định giá trị đối với quyền sử dụng đất và giá trị lợi thế 40
2.2. Thực trạng hoạt động định giá tại Việt nam hiện nay 42
2.2.1. cách định giá 42
2.2.2. Năng lực định giá 42
2.2.3. Xử lý tồn tại tài chính 44
2.2.4. Phương pháp định giá 46
2.3. Đánh giá tổng quan về hoạt động định giá doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay 59
2.3.1. Những mặt đã làm được 59
2.3.2. Những mặt còn hạn chế 63
2.3.3. Những nhân tố tác động đến hoạt động định giá 65
2.3.4. So sánh giữa hoạt động định giá doanh nghiệp ở nước ta và trên thế giới 68
2.4. Định giá Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk theo phương pháp DCF- Chiết khấu dòng tiền tự do 69
2.4.1. Giới thiệu công ty 69
2.4.2. Phân tích thị trường và phân tích ngành 70
2.4.3. Phân tích môi trường nội bộ 78
2.4.5. Thực hiện quá trình tính giá trị 79
CHƯƠNG III 90
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỔ PHẦN HÓA TẠI VIỆT NAM 90
3.1. Định hướng Cổ phần hóa và công tác Định giá doanh nghiệp Nhà nước Cổ phần hóa 90
3.1.1. Mục tiêu và định hướng tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước 90
3.1.2. Yêu cầu và định hướng công tác định giá doanh nghiệp Nhà nước Cổ phần hóa 91
3.2. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp để CPH ở Việt Nam hiện nay 93
3.2.1. Xây dựng hệ thống lý luận làm nền tảng cho hoạt động định giá doanh nghiệp 93
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật hiện hành theo một hệ thống 93
3.2.3. Nâng cao hiệu quả của công tác xử lý tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp 94
3.2.4. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu 95
3.2.5. Phát triển thị trường chứng khoán 95
3.2.6. Hoàn thiện các phương pháp định giá doanh nghiệp hiện hành 96
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường mà nước ta đang hướng đến, nhu cầu xác định giá trị doanh nghiệp là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ mô cũng như trong hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin về giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các doanh nghiệp được đánh giá.
Chủ doanh nghiệp cần thông tin định giá để ra quyết định quản trị doanh nghiệp. Nhà đầu tư cũng cần thông tin này để có một cái nhìn tổng quan về hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, từ đó ra quyết đầu tư, tài trợ. Giá trị doanh nghiệp là thông tin quan trong cho hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, định giá doanh nghiệp còn là nhu cầu tất yếu của kinh tế thị trường khi mà hoạt động mua bán, sát nhập, chia nhỏ doanh nghiệp diễn ra ngày càng thường xuyên và phổ biến.
Xét trong bối cảnh nước ta hiện nay, tiến trình cổ phần hóa đã và đang diễn ra ngày càng mãnh mẽ. Và góp phần không nhỏ trong đó là hoạt động định giá doanh nghiệp. Hoạt động định giá đang là vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu trong giai đoạn cổ phần hóa nói riêng và trong nền kinh tế thị trường nói chung.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề định giá doanh nghiệp mà người viết quyết định chọn đề tài bàn luận về vấn đề này. Đề tài mang tên: “Ứng dụng phương pháp DCF trong hoạt động định giá ở Việt Nam hiện nay”.
Đề tài hướng đến việc xem xét các phương pháp định giá doanh nghiệp, thực trạng công tác định giá tại Việt Nam hiện nay, ứng dụng một phương pháp mới trong định giá và đưa ra một số kiến nghị. Bố cục của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Các phương pháp định giá doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam hiện nay
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa tại Việt Nam
Do những hạn chế về mặt thời gian và năng lực, đặc biệt là hạn chế về mặt thông tin và cơ sở lý luận nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót và sơ suất trong việc trình bày các vấn đề xung quanh hoạt động định giá doanh nghiệp.

CHƯƠNG I
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
1.1. Doanh nghiệp và nhu cầu định giá doanh nghiệp
1.1.1. Định giá doanh nghiệp là gì?
C.Mác khẳng định rằng: hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Nói về khía cạnh giá trị, giá trị của hàng hóa được xác định ở mặt chất và lượng:
 Chất của giá trị là lao động của người sản xuất ra hàng hóa. Hay, đó là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa.
 Lượng của giá trị được tính theo thời gian lao động. Mỗi hàng hóa có thời gian lao động cá biệt khác nhau.
Như vậy, lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa quyết định giá trị của hàng hóa đó.
Doanh nghiệp cũng là một loại hàng hóa, và nó cũng có giá trị nhất định bởi cũng phải mất rất nhiều hao phí lao động thì mới có thể tạo dựng nên một doanh nghiệp.
Định giá doanh nghiệp tức là xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp. Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp mà có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai.
1.1.2. Nhu cầu định giá doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp luôn là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp tới các doanh nghiệp được định giá.

Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị doanh nghiệp phân tích, đánh giá trước khi ra các quyết định kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh nghiệp được định giá. Nội dung cũng như mục tiêu cơ bản của công tác quản trị doanh nghiệp là phải làm tăng giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là sự phản ánh năng lực tổng hợp, phản ánh khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào kết quả định giá, nhà quản trị có thể thấy được khả năng cạnh tranh, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mình trên cơ cở so sánh với các doanh nghiệp khác và so sánh với giá trị trong quá khứ. Giá trị doanh nghiệp trở thành căn cứ, cơ sở và nền tảng hợp lý cho việc đưa ra quyết định về kinh doanh, về tài chính, đầu tư… một cách đúng đắn.
Dưới con mắt nhà đầu tư, nhà cung cấp, thông tin giá trị doanh nghiệp cho họ một sự đánh giá tổng quát về hiệu quả kinh doanh, khả năng sinh lời, uy tín, khả năng tài chính và vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra quyết định về đầu tư, tài trợ, cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
Giá trị doanh nghiệp là thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Giá cả chứng khoán phản ánh giá trị thực tế của doanh nghiệp. Do đó, giá trị doanh nghiệp là cơ sở để các nhà hoặch định chính sách, các tổ chức, hiệp hội kinh doanh chứng khoán đánh giá tính ổn định và hiệu quả của thị trường, từ đó có những điều chỉnh thích hợp. Giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị của doanh nghiệp, bị đánh giá quá cao hay quá thấp do bất kỳ nguyên nhân nào(đầu cơ, thao túng,làm giá,…) đều là mầm mống nguy hiểm cho các biến cố kinh tế.
Đặc biệt, định giá doanh nghiệp còn là nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường khi mà hoạt động mua bán, sát nhập, hợp nhất và chia nhỏ doanh nghiệp diễn ra ngày càng thường xuyên và phổ biến. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá trên một phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động tới doanh nghiệp, trong đó, giá trị doanh nghiệp là một yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để thực hiện thương thuyết.
Nước ta đã và đang diễn ra quá trình cổ phần hóa, trong đó định giá doanh nghiệp là bước đi quan trọng để xác định phần vốn nhà nước, quy mô vốn điều lệ, cơ cấu cổ phần bán lần đầu, xác định mức giá sàn để tổ chức bán cổ phần lần đầu ra công chúng.
1.1.3. Mục tiêu và yếu cầu của hoạt động định giá doanh nghiệp
Đảm bảo tính chính xác, độ tin cậy của thông tin
Thông tin giá trị doanh nghiệp là đầu vào cho quá trình ra quyết định của rất nhiều đối tượng. Để có một quyết định đúng đắn đòi hỏi nguồn thông tin làm cơ cở cho việc ra quyết định phải đủ độ chính xác và tin cậy. Do đó, đây là mục tiêu cơ bản và hàng đầu hay yêu cầu quan trọng nhất trong công tác định giá doanh nghiệp.Thực hiện được yêu cầu này ta cần đảm bảo nhiều yếu tố liên quan khác trong quá trình thực hiện đánh giá: năng lực định giá, phương pháp định giá, tính khách quan và trung thực,…
Đảm bảo tính nhanh chóng và đúng thời điểm
Mọi quyết định đòi hỏi đưa ra trong một khoảng thời gian nhất định và cũng chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian xác định. Vì vậy thông tin định giá phải đảm bảo kịp thời, phù hợp với tiến độ của kế hoạch đã đặt ra từ trước. Tính nhanh chóng ở đây là để đảm bảo kế hoạch được tiến hành đúng như dự kiến. Kết quả định giá được sử dụng đúng thời điểm. Thực hiện nhanh chóng và đúng thời điểm bao hàm trong đó cả đòi hỏi về tính chính xác và tin cậy của thông tin.
Đảm bảo muc tiêu về chi phí
Trên thực tế, khi lựa chọn phương pháp đinh giá nào (định giá tài sản thuần, dòng tiền chiết khấu,…) thì cũng có những chi phí tương ứng trong quá trình định giá. Rõ ràng công việc định giá không phải được thực hiện với bất kỳ giá nào. Hay, đây là một việc làm có sự ràng buộc về chi phí.
Mỗi doanh nghiệp có những đặc trưng riêng khi xét đến khía cạnh giá trị, do đó nhà định giá nhất thiết phải lựa chọn phương pháp tính phù hợp. Doanh nghiệp có thể chỉ có tài sản hữu hình, doanh nghiệp có thể tài sản vô hình lớn trong khi đó tài sản hữu hình lại không đáng kể. Doanh nghiệp đã giao dịch trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp mới thành lập… Việc lựa chọn phương pháp phù hợp sẽ cho phép giá trị cấu thành doanh nghiệp được phản ánh chính xác nhất trong phạm vi có thể. Một tập hợp các phương pháp cũng có thể được sử dụng với mục đích tham khảo, so sánh và nâng cao tính chính xác cho công việc định giá.

1.2. Các yếu tố tác động tới giá trị doanh nghiệp
1.2.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô là yếu tố ảnh hưởng có tính khách quan, về cơ bản chúng vượt khỏi tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển được, doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với môi trường.
1.2.1.1. Môi trường kinh tế
Doanh nghiệp luôn tồn tại trong một bối cảnh kinh tế cụ thể. Bối cảnh kinh tế đó được nhìn nhận thông qua hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá cả, tỷ giá, tỷ suất đầu tư, các chỉ số trên thị trường chứng khoán, …Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu tố khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp lại là sự tác động trực tiếp.
Mỗi sự thay đổi nhỏ của các yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về doanh nghiệp. Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, phản ánh nhu cầu đầu tư và tiêu dùng ngày càng lớn. Chỉ số giá chứng khoán phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi suất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, giá chứng khoán ảo, lạm phát phi mã… là biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay tận gốc. Mọi sự đánh giá về doanh nghiệp, trong đó có giá trị doanh nghiệp sẽ bị đảo lộn hoàn toàn.
1.2.1.2. Môi trường chính trị
Sản xuất kinh doanh chỉ có thể ổn định và phát triển trong môi trường có sự ổn định về chính trị ở mức độ nhất định. Chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tính thiếu minh bạch và công bằng trong cơ chế vận hành cũng như các yếu tố trật tự an toàn xã hội khác bao giờ cũng có những tác động xấu đến mọi mặt đời sống xã hội chứ không riêng gì đối với sản xuất kinh doanh.
Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ, tác động trực tiếp đến sản xuất kinh doanh bao gồm:
 Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng, chi tiết của hệ thống pháp luật.
 Quan điểm tư tưởng của Nhà nước đối với sản xuất kinh doanh thông qua hệ thống văn bản pháp quy thể hiện trong Luật thuế, Luật cạnh tranh, Luật sở hữu trí tuệ,…
 Năng lực hành pháp của Chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của các công dân và các tổ chức sản xuất. Pháp luật đã ban hành nhưng không trở thành hiện thực, tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, hàng giả,… là những biểu hiện của một môi trường chính trị gây bất lợi cho sản xuất.
Môi trường chính trị và môi trường kinh tế đóng vai trò là môi trường cơ sở, đem lại những điều kiện thiết yếu và tối thiểu để doanh nghiệp có thể hoạt động. Và do đó, đây là những yếu tố cần xem xét trước tiên khi đưa ra đánh giá về doanh nghiệp.
1.2.1.3. Môi trường văn hóa-xã hội
Môi trường văn hóa được đặc trưng bởi những quan niệm, những hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức…Thể hiện trong quan niệm về “Chân, thiện, mỹ”-quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội, thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ, sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt…
Trên phương diện xã hội, doanh nghiệp ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng nơi doanh nghiệp đang hoạt động. Chính vì thế, đánh giá về doanh nghiệp không thể bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi bức xúc của môi trường văn hóa xã hội trong hiện tại mà còn phải thực hiện dự báo được sự ảnh hưởng của yếu tố này đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
1.2.1.4. Môi trường khoa học công nghệ
Sự tác động của khoa học-công nghệ đang làm thay đổi một cách căn bản các điều kiện về quy trình công nghệ và cách tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Sản phẩm ra đời ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần. Hàm lượng tri thức có khuynh hướng chiếm ưu thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm.
Đối với doanh nghiệp, sự biến đổi về khoa học và công nghệ không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Sự thiếu nhạy bén trong việc chiếm lĩnh những thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa doanh nghiệp mau chóng đến chỗ phá sản. Và vì thế, khi đánh giá doanh nghiệp, ta phải xem xét đến sự tương tác cũng sự thích ứng của doanh nghiệp trước thay đổi.
1.2.2. Các yếu tố thuộc môi trường ngành
1.2.2.1. Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng
Thị trường là yếu tố quyết định đầu ra đối với sản phẩm hay quyết định khả năng phát triển, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Thị trường của doanh nghiệp được thể hiện bằng yếu tố khách hàng hiện tại hay khách hàng tiềm năng. Thị trường của doanh nghiệp được duy trì và phát triển khi mà mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp với khách hàng được đảm bảo. Để đánh giá uy tín của doanh nghiệp, ta thường dựa vào một số yếu tố định tính như: sự trung thành và thái độ của khách hàng, số lượng và chất lượng khách hàng, tiếng tăm, mối quan hệ,…Và căn cứ có sức thuyết phục cao nhất cho sự đánh giá đó là ở thị phần hiện tại, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu đó qua các thời kỳ.
1.2.2.2. Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp
Doanh nghiệp nhận nguồn cung cấp từ bên ngoài về các loại hàng hóa, nguyên vật liệu, các dịch vụ điện nước, thông tin,…làm đầu vào cho quá trình sản xuất.Tính ổn định của nguồn cung cấp có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo kế hoạch mà doanh nghiệp đã đặt ra.
Trong mối quan hệ với nhà cung cấp, doanh nghiệp đóng vai trò khách hàng. Tuy nhiên, có thể do tính chất khan hiếm vật tư đầu vào, do số lượng nhà cung cấp không đủ lớn, do sự cấu kết giữa họ với nhau,…hay nguyên nhân nào đó mà doanh nghiệp có thể bị gây sức ép. Đặc biệt là sức ép về số lượng và giá cả đầu vào. Do vậy, đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào và đảm bảo cho sản xuất kinh doanh ổn định cần xem xét đến: sự phong phú của các nguồn cung cấp, các nguồn nguyên liệu thay thế, tính lâu dài của nguồn cung, tính kịp thời, giá cả và chất lượng đầu vào.
1.2.2.3. Các hãng cạnh tranh
Nguy cơ hàng đầu cho sự tồn tại của doanh nghiệp chính là từ các đối thủ cạnh tranh. Sự cạnh tranh càng gay gắt quyết liệt đòi hỏi doanh nghiệp phải có những chính sách thích hợp để củng cố vị trí của mình trên thương trường. Để đánh giá năng lực cạnh tranh, ta phải xem xét đến tập hợp các yếu tố: giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ hậu mãi, số lượng doanh nghiệp trong ngành, năng lực cũng như thế mạnh của đối thủ về mọi mặt trong quy trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời phải có khả năng dự báo về việc xuất hiện các đối thủ cạnh tranh mới trong tương lai.
1.2.2.4. Cơ quan nhà nước
Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào luôn phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước: Cơ quan thuế, cơ quan thanh tra, cơ quan môi trường,…Các tổ chức này có chức năng kiểm tra giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp không vượt ra khỏi những luật lệ, quy ước xã hội thể hiện trong luật thuế, luật môi trường, luật lao động,…
Doanh nghiệp có mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó tức là đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với xã hội: nộp thuế, thực hiện trách nhiệm đối với người lao động, giải quyết vấn đề về môi trường sinh thái,… Đó cũng là những biểu hiện có ảnh hưởng tích cực đối với giá trị của doanh nghiệp mà chúng ta cần xem xét đến trong quá trình đánh giá.
1.2.3. Môi trường nội bộ doanh nghiệp
1.2.3.1. Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp
Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Tức là khả năng cạnh tranh và thu lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc trực tiếp và có tính chất quyết định vào yếu tố này.
Mặt khác, giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và là một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị của doanh nghiệp. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó.
Do vậy, hiện trạng tài sản của doanh nghiệp luôn là vấn đề được quan tâm khi định giá doanh nghiệp.
1.2.3.2. Uy tín kinh doanh - Thương hiệu
Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng nó lại được hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau trong doanh nghiệp: chất lượng sản phẩm, dịch vụ chăm sóc khách hàng, năng lực quản trị,…
Cùng sản xuất một loại sản phẩm, nhưng doanh nghiệp do có uy tín lớn có thể định giá cao cho sản phẩm của mình so với sản phẩm của doanh nghiệp khác.
Như vậy, khi đã xây dựng được uy tín-thương hiệu thì đó được coi như một tài sản của doanh nghiệp vì nó góp phần tạo nên lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tài sản uy tín-thương hiệu có giá trị nhất định. Trên thực tế, đã có những giao dịch mua bán thương hiệu vì lợi ích mà nó mang lại cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, uy tín-thương hiệu của doanh nghiệp được thừa nhận như một yếu tố quan trọng cấu thành nên giá trị doanh nghiệp.
1.2.3.3. Chất lượng lao động
Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào máy móc thiết bị kỹ thuật mà còn phụ thuộc vào trình độ và chất lượng của lao động.
Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động là nhân tố tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Đồng thời, nhờ đó, doanh nghiệp có thể giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng, góp phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp.
Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động không chỉ xem ở bằng cấp và số lượng mà quan trọng hơn trong điều kiện hiện nay còn phải xem xét đến hàm lượng tri thức có trong mỗi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Do vậy, khi đánh giá khả năng tồn tại, phát triển và tạo ra lợi nhụân của doanh nghiệp nhất thiết phải xét đến yếu tố chất lượng lao động, coi đó như một yếu tố nội tại quyết định đến giá trị doanh nghiệp.
1.2.3.4. Năng lực quản trị kinh doanh
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý đủ mạnh để có thể sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực cho sản xuất, biến thách thức thành cơ hội, ứng phó linh hoạt với những biến động của môi trường kinh doanh. Năng lực kinh doanh luôn được nhắc tới như một yếu tố đặc biệt quan trọng tác động tới giá trị doanh nghiệp.
Năng lực quản trị kinh doanh của một doanh nghiệp cần được đánh giá theo nội dung cơ bản của hoạt động quản trị: khả năng hoặch định chiến lược, chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, quản trị nguồn nhân lực,…
Năng lực quản trị kinh doanh tổng hợp còn thể hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp. Vì vậy, thực hiện phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ trợ giúp cho việc đưa ra các kết luận về giá trị doanh nghiệp.
1.3. Các phương pháp định giá doanh nghiệp
1.3.1. Phương pháp giá trị tài sản ròng
Cơ sở lý luận:
Lý luận thực tiễn cho rằng: nếu giá trị doanh nghiệp cao hơn giá trị đầu tư cần thiết để xây dựng nên nó thì các chủ đầu tư sẽ lựa chọn phương án xây dựng mới doanh nghiệp thay vì mua lại doanh nghiệp đó. Từ đó, các nhà định giá đã đề ra nguyên lý chung cho phương pháp định giá theo giá trị tài sản: “Giá trị của một doanh nghiệp bằng với giá trị đầu tư cần thiết (hữu hình và vô hình) để lập nên doanh nghiệp đó”.
Trong các phương pháp định giá doanh nghiệp theo giá trị tài sản thì phương pháp giá trị tài sản ròng (NAV) được sử dụng phổ biến nhất và dựa trên cơ sở sau:
 Sự hoạt động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành dựa trên cơ sở một lượng tài sản có thực. Những tài sản đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ thể cho sự tồn tại của doanh nghiệp, cấu thành nên thực thể của doanh nghiệp.
 Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà đầu tư khi thành lập và tiếp tục được bổ sung trong quá trình hoạt động. Cơ cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng định và thừa nhận về mặt pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu tư đối với tài sản đó.
• Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp và có tác dụng điều chỉnh tích cực đối với các cá nhân, tổ chức tham gia thị trường cũng như diễn biến của thị trường
3.2.6. Hoàn thiện các phương pháp định giá doanh nghiệp hiện hành
3.2.6.1. Hoàn thiện phương pháp định giá tài sản
3.2.6.1.1. Hoàn thiện cách định giá tài sản hữu hình
Xây dựng khung giá chuẩn làm cơ sở đối chiếu tham khảo khi xác định nguyên giá tài sản cố định
Hiện nay, có khá nhiều hãng cùng cung cấp một loại tài sản, máy móc thiết bị với các mức giá cạnh tranh khác nhau. Điều này nhiều khi gây rối trí cho những người làm định giá vì không biết phải lựa chọn mức giá nào. Như vậy, đối với những loại tài sản cố định phục vụ cho sản xuất như máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất,…Bộ Tài chính cần xây dựng được hệ thống khung giá chuẩn hay một Website cung cấp thông tin về giá cả được cập nhật thường xuyên có giá trị như một cơ sở dữ liệu đối với cán bộ định giá.
Trong quá trình định giá theo phương pháp tài sản, phương pháp so sánh thị trường là một cách rất hữu dụng bởi độ chính xác cao và linh hoạt. Trong trường hợp tài sản cần định giá không có mặt trên thị trường, cán bộ định giá có thể tính giá thông qua tài sản tương đương, áp dụng phương pháp so sánh thị trường để tìm tài sản tương đương thích hợp trong khi định giá. Hiện nay, thị trường nhân tố sản xuất trên toàn cầu ngày càng có tính thông thương và liên kết mạnh, thông tin sẵn có. Cán bộ định giá có thể sử dụng nguồn thông tin này để trợ giúp cho công việc của mình một cách chủ động và linh hoạt hơn.
Hỗ trợ trong công tác xác định giá trị tài sản cố định hữu hình
Việc thực hiện công tác định giá thông qua tổ chức trung gian được thực hiện chủ yếu qua các Công ty Kiểm toán và Công ty Chứng khoán. Các công ty này tuy có ưu thế là hiểu biết sâu rộng về chính sách và nguyên tắc hạch toán kế toán nhưng chưa có đủ hiểu biết và kinh nghiệm về giá trị các loại tài sản trong doanh nghiệp. Điều này gây cản trở cho công tác thẩm định giá trị tài sản. Thay vào đó, các công ty này phải mời chuyên gia kỹ thuật chuyên ngành thẩm định độc lập. Bộ Tài chính hiện có 2 Trung tâm thẩm định giá có đủ năng lực và chuyên môn trong lĩnh vực này. Vì vậy, cần có sự kết hợp và hỗ trợ từ các bên liên quan, đó là: các tổ chức định giá, Trung tâm định giá thuộc Bộ Tài chính, các doanh nghiệp được định giá và các chuyên gia kỹ thuật của các ngành nghề kinh tế.
Thống nhất trong quy định về giá trị đất đai
Ở nước ta, theo quy định của Luật pháp từ trước đến nay, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thay mặt dân thồng nhất và quản lý còn mọi cá nhân và tổ chức trong nước chỉ có quyền sử dụng. Vì thế, đất đai cũng như quyền sử dụng đất, chưa phải hàng hóa thực sự của thị trường. Trong thực tế, các doanh nghiệp khi muốn mở rộng mặt bằng sản xuất, chọn vị trí thuận lợi, xây dựng thêm chi nhánh,… đều phải thực hiện giao dịch mua bán theo giá thị trường. Như vậy, thị trường bất động sản hình thành và tồn tại không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của Nhà nước, Nhà nước chỉ điều tiết thị trường ở một mức nhất định. Do vậy, việc đưa giá trị sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp thực sự là việc làm cần thiết.
Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp có thể được lựa chọn giữa hai hình thức thuê đất hay giao đất. Nhưng thiết nghĩ, việc làm như vậy sẽ tạo nên một môi trường kinh doanh bất bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp cổ phần hóa. Bởi cùng là đất, nếu là đi thuê của Nhà nước, giá rẻ, không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể được lợi rất lớn khi giá cổ phần không quá cao bởi giá trị doanh nghiệp tính toán được là thấp, dễ dàng bán cổ phần trong khi diện tích đất thuê của nhà nước với thời gian dài và giá trị rất lớn, hứa hẹn những tiềm năng mà doanh nghiệp khác không có được. Nếu thực hiện hình thức giao đất, giá trị quyền sử dụng đất phải đưa vào giá trị doanh nghiệp, giá doanh nghiệp có thể bị đẩy lên rất cao, khó bán cổ phần, doanh nghiệp có nguy cơ chịu thiệt nên không doanh nghiệp nào chọn hình thức này.

3.2.6.1.2. Hoàn thiện phương pháp tính giá trị lợi thế
Giá trị lợi thế là giá trị hợp các tài sản vô hình tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp như: bằng phát minh sáng chế, uy tín doanh nghiệp, trình độ quản lý, vị trí doanh nghiệp, thương hiệu,…
Phần lớn các doanh nghiệp không tính toán và ghi chép giá trị lợi thế của mình trên sổ sách kế toán. Nguyên nhân chủ yếu là do việc tính toán lợi thế là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp. Nếu doanh nghiệp phản ánh giá trị lợi thế của mình trên sổ sách thì giá trị đó cũng không thực sự đáng tin cậy .Tại Việt Nam, cũng chưa có một phương pháp cụ thể nào mang tính khoa học và được áp dụng rộng rãi cho việc xác định giá trị lợi thế. Đây là vấn đề khúc mắc cần được giải quyết vì không thể phủ nhận đóng góp của giá trị lợi thế vào giá trị doanh nghiệp, thậm chí là rất lớn.
Hiện nay, tại Thông tư 126/2004/TT-BTC có hướng dẫn cách tính giá trị lợi thế như sau:

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top