trangany_1988

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

• xuất đầu tư, trước hết là đầu tư về tài chính. Nguồn tài chính này trong dân khá lớn nhưng chưa được sử dụng để phát triển sản xuất, để các nguồn này có thể góp phần tăng thêm suất đầu tư cho sản xuất kinh doanh cần có hàng loạt các biện pháp.
Có thể bắt đầu ngay từ tên gọi. Không nên xuất phát từ KTQD để đặt tên cho các thành phần kinh tế (TPKT) khác, gọi là “ngoài quốc doanh”. Trong nền kinh tế nhiều thành phần cho dù kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo thì vẫn phải đảm bảo tính bình đẳng của các thành phần kinh tế và thực chất mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất, không có bộ phận này là “trong” còn các bộ phận khác là “ngoài”. Thay đổi cách gọi cũng là giải pháp xoá đi tâm lý tự ti, bi quan của các thành phần kinh tế khác mà một thời họ đã bị chèn ép, lãng quên.
Việc cải tạo các thành phần kinh tế phải được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện và trên cơ sở hoàn cảnh XHH thực tế. Giải pháp đạt hiệu quả cao chính là không cô lập các thành phần kinh tế với nhau mà phải sử dụng các hình thức hợp doanh, đan xen các hệ sử dụng khác nhau vào trong cùng một lĩnh vực, thậm chí trong cùng một công ti, xí nghiệp. Các xí nghiệp hợp doanh giữa nhà nước và tư nhân, giữa hợp tác xã (HTX) và tư nhân, giữa nhà nước và HTX, tư nhân cần trở thành một trong các hình thức cơ bản tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần. Trong sản xuất nông nghiệp, do tính đặc thù của nó nên ngoài việc phải giải quyết tốt quyền sở hữu ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân. còn phải chuyển kinh tế HTX hiện nay thành kinh tế nông trại. Kinh tế hộ nhận khoán là cơ sở hình thành kinh tế nông trại và các tổ chức nông trại. Đây cũng đang là xu hướng chung của nền nông nghiệp thế giới. Trong điều kiện nước ta hiện nay, không gian tổ chức các nông trại lớn và chưa vội hợp tác nhiều nông trại với nhau. Có thể mỗi nhóm chỉ nên 5-20 hộ tự nguyện góp ruộng đất, lao động và tiền vốn để sản xuất kinh doanh. Ngoài ra còn có các hình thức hợp tác khác như : Các nông trại chung nhau mua “đầu vào” hay chung nhau bản hay chung nhau bản “đầu ra” hay cũng thể hợp tác kinh doanh. Tổ chức nông trại và sự hợp tác giữa các nông trại chính là hình thức HTX nông nghiệp theo mô hình mới cần đạt được.
Để nhân dân yên tâm bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh và hoạt động đúng hướng. Nhà nước phải đưa ra được một hệ thống các văn bản pháp quy như luật kinh doanh, luật thừa kế, luật chuyển nhượng, luật thuê mướn lao động… Đồng thời hoàn thiện chế độ đăng ký kinh doanh, kế toán, thống kê, thuế, hợp đồng kinh tế. Các luật và chế độ này không chỉ nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước mà phải góp phần thoả đáng 3 lợi ích: Nhà nước-tập thể-cá nhân, khuyến khích làm giàu trên cơ sở bỏ vốn kinh doanh đúng pháp luật.
• Ba là tiến hành đồng bộ những giải pháp vĩ mô để tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả, bao gồm:
Hoàn thiện nhanh chóng hệ thống tài chính và ngân hàng bằng những công nghệ kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại, đảm bảo thông suốt trong và ngoài nước. Đại bộ phận, các khoản thanh toán, ngân hàng phải đảm đương được qua bộ máy của mình ; sử dụng tiền mặt chỉ ở mức hạn chế. Tín dụng ngân hàng phải thực hiện đi vay để cho vay chứ không dựa vào nguồn phát hành và chủ yếu đảm bảo cho kinh tế quốc doanh như hiện nay. Hoạt động tài chính cũng phải được đổi mới, lấy thu lương chi, thu đủ và chi đúng. Trong điều kiện nguồn thu có hạn, không nên chi quá khả năng bằng cách vay nợ nước ngoài và phát hành. Điều đó chỉ dẫn đến “lạm phát” thì không thể nâng cấp bất cứ ngành nào, lĩnh vực nào, do đó cần từ bỏ ngay ý định nâng cấp ngành này hay lĩnh vực kia bằng lạm phát. Lâu nay, tài chính nước ta thường chạy theo nhu cầu chi quá lớn của một số ngành, một số lĩnh vực trong khi nguồn thu hạn hẹp. Đây rõ ràng không thực tế. Do đó chống lạm phát không đạt được mục tiêu đề ra - phải nhanh chóng xây dựng được một thị trường đầy đủ. Ơ nước ta hiện nay còn thiếu nhiều trung tâm quan trọng của nền sản xuất hàng hoá như : Thị trường vốn, thị trường lao động ...
Thời đại ngày nay, thông tin được coi là yếu tố của lực lượng sản xuất. Thông tin là sức mạnh của quyền lực. Do vậy, phải hoàn thiện các hệ thống thông tin kỹ thuật phục vụ cho các nhà doanh nghiệp và phát huy dân chủ hoá trong dời sống kinh tế. Hệ thống thông tin của nước ta hiện nay còn rất yếu và tổ chức chưa hợp lý, thông tin bị chia cắt, số người hiểu biết về thông tin chưa nhiều. Để đổi mới hoạt động này phải có hoạt động thông tin kinh tế là một ngành dịch vụ, trong đó tất có các thành phần kinh tế cá thể và cần thiết tham gia.
Xây dựng đội ngũ các doanh nghiệp giỏi, các nhà quản lý vĩ mô có tài, đồng thời liên kết họ lại. Cái thiếu hụt lớn nhất của chúng ta hiện nay là ở chỗ : Chúng ta đội ngũ cán bộ khá đông đảo nhưng chất lượng không phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế. Có một bộ phận quá quen với cơ chế quản lý cũ, đến nay hoàn toàn không có đủ khả năng thích ứng với cơ chế mới, một bộ phận khác chưa được đào tạo trước khi bố trí vào các vị trí then chốt trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Tóm lại là đại bộ phận số cán bộ hiện có phải đựợc bố trí, sắp xếp và đào tạo lại. Về chính sách sử dụng cán bộ thì mạnh dạn phải được coi là một trong những phương châm chủ yếu nếu không muốn nói là số một.
Nhanh chóng phổ cập nghề cho người lao động. Mỗi năm nước ta có trên một triệu thanh niên đến tuổi lao động. Hệ thống trường chuyên nghiệp hiện mỗi năm chỉ đào tạo được 20 vạn người, chủ yếu là lao động chính qui, dài hạn theo yêu cầu của nhà nước. Như vậy phần lớn thanh niên đến tuổi lao động không được đào tạo nghề, do đó vấn đề tiếp thu đào tạo và bồi dưỡng họ phải được đặt ra. Hướng ưu tiên, đầu tư của thế giới hiện nay là lao động có kĩ thuật chứ không phải là sử dụng lao động không có kĩ thuật. Giá cả sức lao động sẽ như những năm trước đây, những sản phẩm hàn hoá có thị trường lớn là sản phẩm có hàm lựơng chất xám và khoa học kỹ thuật cao.








kết luận

Qua quá trình phân tích ở trên ta thấy chủ chương phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một chủ trương đúng đắn. Nó phù hợp với lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và cũng phù hợp với thực tế hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Thực tế những năm qua cho thấy chủ trương này đã và đang phát huy hiệu quả góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới toàn diện, công nghiệp hoá hiện đại hoá. Thổi một luồng sinh khí mới, sức sống mới vào sự phát triển kinh tế của đất nước vì vậy chủ trương này cần phát huy hết những điểm mạnh khắc phục hết những điểm còn thiếu xót.
Để làm được điều này Đảng, nhà nước rất cần những hiểu biết của mọi người đặc biệt là những sinh viên kinh tế - những người sẽ nắm lấy những nơi quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Đất nước ta hiện nay đang trên đà phát triển mở ra nhiều vận hội mới tuy nhiên cũng đã đặt ra rất nhiều thách thức đòi hỏi Đảng, nhà nước và nhân dân ta phải sáng suốt hơn nữa tỉnh táo hơn nữa trong việc lựa chọn đường đi nước bước cho mình. Tuy nhiên, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng Đảng và nhân dân ta sẽ khắc phục được những khó khăn để hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng đất nước.

Tài liệu tham khảo


1. Giáo trình kinh tế chính trị tập 2 - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Trường Đại Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội
2. C. Mác - Ph. Anghen : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
3. V.I. Lê Nin toàn tập, Nxb Tiến Bộ, 1997.
4. Tạp chí Cộng Sản.

Mục Lục

Lời mở đầu 1
Phần I : Lý luận chung 3
I. Lý luận chung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở việt Nam 3
1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa 3
2. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN 3
II. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta 4
1. Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ 4
2. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam 7
III. Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: 11
1. Đặc trưng, vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
ở nước ta 11
2. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế 13

Phần II : Phương hướng nhằm phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta 16
I. Phương hướng chung 16
II. Phương hướng và giải pháp cụ thể đối với từng thành phần kinh tế 16

Kết luận 21
lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự nghiệp đổi mới kinh tế dòi hỏi phải nhanh chóng tiếp cận những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Quá trình đổi mới kinh tế cần có những cán bộ kinh tế có kiến thức có phương pháp thích hợp với kinh tế thị trường.
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ 20, về cơ bản nền kinh tế của Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm ưu thế, vận hành theo cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp và có nhiều sai lầm trong nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã không nhận thức đúng về kinh tế thị trường, cho rằng sản xuất hàng hoá là hình thức tổ chức của Chủ nghĩa tư bản, đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế, coi nhẹ qui luật giá trị, qui luật cạnh tranh, chỉ thấy mặt tiêu cực của thị trường.
Xã hội Việt Nam vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Vì vậy Việt Nam vẫn là nước cùng kiệt nàn, lạc hậu và kém phát triển. Do đó phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong những bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để làm được điều đó chúng ta cần phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đây là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở Việt Nam hiện nay. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế của Việt Nam trong hiện tại và trong tương lai để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá để huy động sức mạnh của toàn dân vào việc khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, cần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đó là chủ trương có tính chiến lược trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay mà Đảng và nhà nước Việt Nam đã xác định.
Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước Việt Nam hiện nay và nó sẽ được giải quyết ở trong tiểu luận này với những nội dung chính như sau:

Phần I : lý luận chung gồm:
 Lý luận chung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
 Nêu lên tính tất yếu khách quan của việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Phần II : Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


Phần I : Lý luận chung
I. Lý luận chung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở việt Nam.
Nói đến quan điểm nền kinh tế nhiều thành phần thì trước hết ta phải hiểu các thành phần kinh tế ? khái niệm xã hội chủ nghĩa là gì ? và tại sao phải phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà không theo một định hướng khác.
1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa
Tại đại hội Đảng lần thứ VIII vào tháng 6 – 1996 đã xác định xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chủ yếu có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột mọi người có quyền làm chủ bản thân mình và làm theo năng lực hưởng theo lao động. Là xã hội mà người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, tự do trong khuôn khổ pháp luật, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ và hợp tác với nhân dân ở các nước trên thế giới.
Theo Mác xã hội chủ nghĩa đáng lẽ phải ra đời từ các nước tư bản văn minh có nền kinh tế phát triển cao, song do lịch sử Việt Nam đã chịu ách thống trị của phong kiến và thực dân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy Việt Nam là nước có nền kinh tế chưa phát triển còn cùng kiệt nàn lạc hậu. Do vậy Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa để Việt Nam theo kịp các nước phát triển trên thế giới.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H Tại sao nước Lào phải phát triển nền kinh tế thị trường, muốn phát triển nền kinh tế thị trường định Luận văn Kinh tế 0
O Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
N Mâu thuẫn biện chứng của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Luận văn Kinh tế 0
M Đánh giá tác động của sự phát triển thuỷ sản lên tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
1 Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Luận văn Kinh tế 0
O Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân Luận văn Kinh tế 0
V Đầu tư của khu vực tư nhân đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
E Xây dựng nền công nghiệp Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững, kết hợp phát triển nông nghiệp với Luận văn Kinh tế 0
S Nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế nông thôn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
B Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top