Kynan

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

tui vẫn thường tâm niệm rằng các nghệ sĩ, đặc biệt là những nhà văn là những người may mắn (theo một cách nào đó) vì luôn nhạy cảm nhận ra được sứ mệnh của mình, điều còn lại là có đủ kiên nhẫn và dũng cảm theo đuổi nó hay không?
Phạm Thị Hoài có sứ mạng trở thành một nhà văn, một người đổi gió cho văn học. Nhà văn ngay từ những sáng tác ban đầu đã thể hiện là một cây bút cá tính mạnh mẽ, luôn có ý thức cách tân văn học một cách triệt để và quyết liệt.
Thiên sứ là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn, ngay từ buổi đầu mới ra đời đã tạo sóng gió. Cũng giống như các tác phẩm gây hấn khác như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Bến không chồng của Dương Hướng, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp … Thiên sứ đã khuấy động văn đàn. Những dư luận trái chiều xuất hiện trong một khoảng thời gian dài. Và càng về sau, những ý kiến, nhận định đều gần như thống nhất, khẳng định đây là một trong những tiểu thuyết có giá trị của văn học hiện đại sau 75, thể hiện một lối văn mở đường cho một khuynh hướng tiểu thuyết trong văn học mới.
Thiên sứ được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức và Phần Lan. Năm 1993, bản dịch Thiên sứ bằng tiếng Đức đã đoạt giải “Tiểu thuyết nước ngoài hay nhất” của tổ chức Frankfurt Literaturpreis trao tặng hàng năm cho tiểu thuyết xuất bản tại Đức. Riêng bản dịch tiếng Anh thì đoạt giải Dinny O'Hearn cho thể loại văn học dịch vào năm 2000. Những đánh giá trong và ngoài nước đã cho thấy Thiên sứ là một tác phẩm có giá trị lớn, một bước tiến của tiểu thuyết Việt Nam trên con đường giao lưu, tiếp biến với văn học thế giới.
Hiện nay đã có nhiều những công trình nghiên cứu, những bài viết tiếp cận tác phẩm này từ nhiều khía cạnh khác khau. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tui chỉ bàn về nhân vật thiên sứ trong tác phẩm qua đó lí giải rõ hơn về quan niệm về con người, cái đẹp của nhà văn.
1. "Thiên sứ" trong mẫu gốc.
Thiên sứ (anges) hay còn gọi là thiên thần là một trong những mẫu gốc có ý nghĩa quan trọng trong biểu tượng văn hoá nhân loại, đặc biệt là trong văn hoá phương Tây.
Thiên sứ được xem là "sinh linh môi giới giữa thượng đế và nhân thế, được hình dung dưới nhiều dạng thức khác nhau trong văn bản Akkad, Ougarit, Kinh Thánh và trong các sách thánh khác. Họ hay là những sinh linh thuần tuý tinh thần, hay là những thân thể bằng thanh khí, không khí, song họ chỉ có thể mang hình dạng của con người (892-11). Thiên sứ thường có vẻ đẹp thánh thiện. Vẻ đẹp của thiên sứ thường được gợi lên từ khuôn mặt. Vì vậy mà biểu tượng phái sinh phổ biến của thiên sứ là gương mặt thiên sứ. Hình dáng ngoài của thiên sứ còn có nét đáng chú ý là đôi cánh trắng và vầng hào quang, thể hiện nét khác biệt của thần linh. Đôi cánh trắng còn gợi đến một biến thể hình hài khác của thiên sứ là hình dáng thiên nga.
Mẫu cổ thiên sứ tồn tại song song với quá trình phát triển ý thức nhân loại. Ngay cả khi khoa học phát triển, sản phẩm của trí tưởng tượng ban sơ này vẫn có vị trí nhất định trong đời sống văn hoá, tinh thần của con người.
Cổ mẫu thiên sứ có nhiều những ý nghĩa khác nhau, thiên sứ cứu nạn, thiên sứ truyền giải, thiến sứ huỷ diệt, sứ giả của giao ước, thiên sứ đứng chầu Thiên Chúa, cũng có một nhóm thiên sứ ác … Trong các lớp nghĩa biểu trưng đó có 3 ý nghĩa biểu trưng đáng chú ý:
Thứ nhất, Thiên sứ đóng vai trò là sứ giả của thượng đế, " thiên sứ là quân đội của chúa trời, triều đình của Ngài, nhà cửa Ngài. Họ truyền những mệnh lệnh của chúa và quan sát thế gian. "(893. 11).
Từ ý nghĩa đó, hình ảnh thiên sứ luôn gắn với hình ảnh là hiện thân của chúa trơì, thượng đế, ngọc hoàng. Thiên sứ luôn mang những tin tức tốt lành cho con người, gắn với cái thiện.
Thứ hai, Thiên sứ còn đóng vai trò bảo hộ các dân tộc, thánh quốc. Thời trung cổ, các thiên thần can thiệp khi có nguy cơ chiếnh tranh thập tự chinh. Thiên sứ cũng có ý nghĩa là cái thiện, luôn đối đầu với ác quỉ để bảo vệ con người.
Thứ ba, thiên sứ còn có ý nghĩa là sự cứu rỗi tâm hồn của con người. Thiên sứ hiện thân cho vẻ đẹp trinh khiết, trắng trong, mang lại sứ thanh tẩy tâm hồn người. "trong một dị bản muộn nhất của một ruyện cổ Ailen, mang tên là "cái chết của Cuchumlainn có mtọ đoạn:người anh hùng xuất chinh và có nguy cơ tử trận thấy hiện lên một đoàn thiên thần và họ hát cho chàng nghe một bản nhạc của thiên đường" (892,11). Sự xuất hiện của thiên sứ cùng bài hát thiên đường tượng trưng cho lễ cầu hôn, rửa tội cuối cùng của con người trước khi lìa xa trần thế.
2. Thiên sứ trong tác phẩm cùng tên của Phạm Thị Hoài.
2.1. Hon- Thiên sứ bị chối từ.
Tiểu thuyết Thiên sứ của Phạm Thị Hoài là tác phẩm được viết nhại lại kiểu tiểu thuyết chương hồi, có kết cấu truyện lồng trong truyện và mỗi chương truyện lại có nhan đề riêng. Mỗi chương là một câu chuyện kể xoay quanh những nhân vật khác nhau. Trong đó "Thiên sứ" là chương truyện thứ 3 kể về hành trình cuộc đời của bé Hon.
Hành trình của Hon trong câu chuyện kể gắn với hành trình của một thiên sứ, bao gồm 3 giai đoạn: sự chào đời kì lạ (giáng thế), hành động kì lạ - ban phát yêu thương (cứu vớt) và ra đi kì lạ (hóa thân).
Sự chào đời kì lạ của Hon gợi đến sự giáng thế của các "tướng nhà trời" trong văn hoá phương Đông: " Bé Hon ra đời, khi mẹ tui tưởng không thể sinh nở được nữa. Một nữa không hiểu sao cả dây quần áo nhà phơi bị bỏ quên qua đêm ngoài trời. Kì lạ, chỉ riêng bộ đồ lót của mẹ đẫm sương và loang lổ viết từa tựa như chàm (…) Không lâu sau, mẹ mang thai" (tr4)1 Cách kể chuyện hướng mở cho người đọc liên tưởng đến sự hoài thai giữa con người và trời đất, thiên nhiên trong các câu chuyện cổ quen thuộc ( Thánh Gióng, Chàng Cóc…).
Sự hiện diện của nhân vật gợi nhắc đến khoảnh khắc vĩnh hằng trong tâm thức của nhân loại: chúa giáng trần. "Con bé lọt lòng, không chịu cất tiếng khóc, mà mỉm cười làm thân với đủ 13 nữ hộ sinh đứng quanh bàn đẻ. Thế là 13, lúc đầu ngơ ngác, sau bật khóc như một dàn đồng ca. mẹ tôi, hoảng hốt cực độ, bắt giọng lĩnh xướng. Họ im bặt khi bố xuất hiện, và con bé lại mỉm cười với bố, khiến ông ngã phịch xuống 1 chiếc ghế"(tr5, 1) 13 nữ y tá gợi đến hình ảnh 13 tông đồ của Chúa. Nụ cười của thiên sứ Hon có ý nghĩa như là nụ cười cứu rỗi linh hồn, ban phát tình yêu thương cho nhân loại.
Lời nói và hành động của Hon kì lạ, mang ý nghĩa cứu rỗi linh hồn. Câu nói đầu tiên và cũng là duy nhất của nhân vật là "thơm nào", thể hiện khao khát được trao gửi yêu thương. Thơm trong ý niệm của loài người là " biểu tượng của sự hợp nhất là gắn kết với nhau (tr446, 11) với tư cách là giới chỉ của sự hoà hợp, của sự qui thuận, sự tôn kính của tình yêu. Trong các lí lẽ của nữ thần Ceres nó chứng thực sự hoà hợp tâm linh của con người (tr447,11). Hon luôn muốn được hoà hợp tâm hồn với những người xung quanh, đánh thức tình yêu và hàn gắn nỗi đau trong mỗi linh hồn.
Không chỉ lạc lõng cô đơn, thiên sứ còn là những sinh thể bị vùi dập và tự vuì dập. Hằng đã bị vùi dập ngay trong lần đầu tiên nhân vật ra khỏi nhà mà không có vệ sĩ bé nhỏ-Hoài ở bên. Câu văn ngắn gọn" bông cẩm chướng đã ngẳt" mà khái quát lên cả một thân phận. Nhưng từ khi lựa chọn lế cầu hôn nhốn nháo, cuộc hôn nhân không tình yêu thì chính Hằng tự vùi dập bản thể của mình. Trượt dài không cuộc sống không tình yêu, không điểm tựa và cái giá cao nhất mà nhân vật phải trả chính là ước mơ có một đứa con không bao giờ trở thành hiện thực.
Cái đẹp trong cuộc sống luôn bị đe doạ và bị thử thách nghiệt ngã.
Hoài, Hằng vì nhượng bộ mà tồn tại như nhữn mảnh vỡ còn Hon vì giữ nguyên vẻ đẹp của mình mà ra đi. Cái chết của Hon có ý nghĩa như là sự bất tử hoá của cái đẹp. Mãi mãi, hình dáng thiên thần, nụ cười thiên thần sẽ trọn vẹn như thế. Còn nhân vật Hoài, vì sự nhượng bộ mà đánh mất vẻ đẹp ban sơ của mình. Qua đó, Phạm Thị Hoài thể hiện cách nhìn bi quan về thân phận của cái đẹp trong cuộc sống. Cái đẹp buộc phải lựa chọn, hay là ra đi để bảo tồn hay là nhượng bộ để tồn tại và đánh mất bản thể nguyên sơ của mình. Tác phẩm để kết thúc theo lối bỏ ngỏ. Nhà văn trao cho bạn đọc sứ mạng đi tìm câu trả lời cho sự sống của cái đẹp.

Nhà văn xây dựng nhân vật Hon theo motip trong các câu chuyện cố, viết theo lối văn nhại truyền thống, tạo ra sự so sánh về nhiệm vụ các thiên sứ thuở xưa và hiện đại. Nếu như thánh Gióng năm xưa có nhiệm vụ giúp nhân dân đánh giặc Ân cứu nước thì bé Hon trong thời hiện đại có nhiệm vụ mang nụ cười và nụ hôn đến với cuộc sống. Đặt trong sự so sánh đó ta có thể nhận ra rằng nụ cười, nụ hôn cho con người có giá trị cấp thiết, quan trọng như sự hoà bình của cuộc sống.
Sự khác biệt lớn nhất so với vị anh hùng xưa là Hon không hoàn tất nhiệm vụ. Thiên sứ Hon trong tác phẩm của Phạm Thị Hoài chỉ đạt được thành công một phần, mang lại một bầu không khí khác lạ trong gia đình, đánh thức những phần người ngủ say trong linh hồn của Hạc trong một khoảng thời gian ngắn. Nhưng ngay sau đó, Hon bị chối từ quyết liệt.
Sự chối từ được định hình từ những giây phút đầu tiên giáng thế, "13 nữ y tá khóc thét lên, mẹ hoảng hốt cực độ, bắt giọng lĩnh xướng. Họ im bặt khi bố xuất hiện, và con bé lại mỉm cười với bố, khiến ông ngã phịch xuống 1 chiếc ghế". hay là kinh ngạc quá đỗi, hay là hoảng hốt cực độ, không một ai tỏ thái độ vui mừng khi thiên sứ chào đời. Và nó rõ nét dần lên cùng với thời gian. Khi Hon thực thi nhiệm vụ trao gửi nụ hôn, Hon bị chối từ quyết liệt, mẹ "gắt lên, 'ra chỗ khác, thơm với tho gì, không kịp mở mắt ra đây này", bố:" thôi thôi đủ rồi, ướt nhoèn cả mặt người ta… anh Hạc " cút". Hon ra đi, kì lạ như khi xuất hiện. Sự ra đi ấy diễn ra trong cô đơn và lặng lẽ, mang theo nụ cười thiên sứ trên môi, một nhiệm vụ chưa hoàn tất. Hon hoá thân thành linh thể trinh khiết, trở về với bản thể nguyên sơ của thiên sứ trong mẫu gốc.
Sự chối từ gợi lên hai lớp nghĩa. Thứ nhất, con người là đối tượng được cứu vớt nhưng lại không thức nhận được tình trạng sống mòn không yêu thương của mình, chối từ thiên sứ. Thứ hai, sự chối từ quyết liệt thể hiện phần "ác quỉ" trong mỗi linh hồn đang chiếm ưu thế, lấn át "phần thiên sứ". Song trùng với hai ý nghĩa đó là hai ý nghĩa biểu trưng của thiên sứ Hon: sứ giả tình yêu thương của thượng đế và phần thánh thiện trong mỗi linh hồn con người.
"Sứ giả pha lê yếu ớt, lạc vào thế giới này ban phát nụ cười và môi hôn"(tr6,1) đã không thể chiến thắng những cỗ máy han rỉ. Nhưng sự hiện diện của sứ giả ấy cũng đã phần nào tạo lập lại một trật tự khác trong xã hội

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top