Download Tiểu luận Chứng minh: Theo Luật Hình sự Việt Nam, người chuẩn bị phạm tội cướp tài sản theo Điều 133 Bộ luật hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự miễn phí





Việc người tấn công sử dụng sức mạnh vật chất, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay hành vi khác không nằm ngoài mục đích là nhằm chiếm đoạt tài sản của người bị tấn công, chủ sở hữu hợp pháp của tài sản đó. Các hành vi nói trên thường xảy ra trước hay cùng thời điểm với hành vi chiếm đoạt tài sản. Tội “Cướp tài sản” là tội có cấu thành tội phạm hình thức, tức là tội này được coi là hoàn thành ngay khi người tấn công có hành vi sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức khắc hay các hành vi khác nhằm khống chế người bị tấn công, khiến họ không thể chống cự được, bất kể người tấn công có chiếm được tài sản hay không. Vì vậy, khi người tấn công thực hiện các hành vi này có nghĩa là đã đe dọa đến quan hệ sở hữu hay quan hệ tài sản.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Đề số 2: Hãy phân tích để chứng minh: Theo Luật Hình sự Việt Nam, người chuẩn bị phạm tội cướp tài sản theo Điều 133 Bộ luật hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bài làm
Sở hữu là quyền thiêng liêng của mỗi con người và quyền đó được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ và quy định trong Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật khác như: Bộ luật dân sự, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,… Tại sao Nhà nước lại phải bảo vệ quan hệ sở hữu? Bởi vì những hành vi xâm hại đến quan hệ sở hữu cũng có nghĩa là xâm phạm đến các quy phạm pháp luật về chế độ sở hữu. Điều này có thể giải thích xuất phát từ chính sách của Đảng
Có người cho rằng: Theo Luật hình sự Việt Nam, người chuẩn bị phạm tội cướp tài sản theo Điều 133 Bộ luật hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự. Vậy khẳng định đó là đúng hay sai? Trước khi đi vào giải quyết vấn đề, chúng ta cần tìm hiểu thêm về giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn mà trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó. Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định rõ ràng về giai đoạn này tại Chương III Điều 17:
“Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hay tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hay một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện trên.”
Ta có thể thấy, giai đoạn chuẩn bị phạm tội bắt đầu khi người phạm tội có hành vi chuẩn bị dụng cụ, phương tiện hay tạo ra những điều kiện để thực hiện tội phạm một cách nhanh chóng, dễ dàng. Thời điểm muộn nhất của giai đoạn này là trước khi người phạm tội thực hiện hành vi khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: hành vi chuẩn bị kìm cộng lực để cắt khóa trong tội “Trộm cắp tài sản”, hành vi chuẩn bị dao trong tội “Giết người”,… Việc xác định thời điểm sẽ giúp chúng ta phân biệt giai đoạn chuẩn bị phạm tội với giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Có một số ý kiến cho rằng hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện cho việc phạm tội chưa tác động trực tiếp và làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động của tội phạm, chưa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội mà tội phạm đó hướng tới. Do đó, đây không phải là một giai đoạn thực hiện tội phạm. Đây là một quan điểm sai lầm, chúng ta không thể tách rời hành vi chuẩn bị với hành vi thực hiện tội phạm (hành vi khách quan). Rõ ràng, người phạm tội sẽ không thể tiến hành hành vi khách quan đó nếu như không có sự chuẩn bị về công cụ, phương tiện hay tinh thần. Hành vi cướp tài sản sẽ không thể xảy ra nếu không có sự chuẩn bị về công cụ, phương tiện gây án (dao, súng, phương tiện lưu thông,…). Do đó, hành vi chuẩn bị cũng được coi là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm, mặc dù bản thân chưa phải là hành vi thực hiện tội phạm.
Tuy nhiên, không phải tất cả những người có hành vi chuẩn bị phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà mình định thực hiện mà chỉ có “người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hay một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện trên” (Điều 17 BLHS năm 1999). Vậy tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng ở đây được hiểu như thế nào? Điều này được quy định rất rõ ràng tại khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999: “…Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hay tử hình”.
“Cướp tài sản” là tội phạm được quy định tại điều 133 BLHS năm 1999. Đây cũng là một trong mười ba tội phạm được quy định trong chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”. Nội dung của Điều luật này như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay có hành vi khác làm cho người bị tấn công không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hay thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Gây thương tích hay tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Gây thương tích hay gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng;
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tug từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hay tử hình:
a) Gây thương tích hay gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên hay làm chết người;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản, phạt quản chế hay cấm cư trú từ một năm đến năm năm.”
Như vậy, khẳng định: “Theo luật Hình sự Việt Nam, người chuẩn bị phạm tội “Cướp tài sản” theo Điều 133 Bộ luật hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự” chỉ đúng khi tội “Cướp tài sản” là tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại Điều 8 và Điều 17 BLHS năm 1999. Để chứng minh cho khẳng định trên, chúng ta cùng đi xem xét Cấu thành tội phạm của tội này:
Về mặt khách thể của tội phạm: cướp tài sản là hành vi một người sử dụng vũ lực hay đe dọa vũ lực hay sử dụng các hành vi khác để đưa người khác vào trạng thái không thể chống cự nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của họ. Như vậy, có thể thấy, tội này cùng một lúc xâm hại đến hai quan hệ xã hội là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân, mà ở đây là tính mạng và sức khỏe của công dân.
Về mặt khách quan của tội phạm: mặt khách quan của tội phạm được thể hiện qua hành vi dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực hay hành vi khác để chiếm đoạt tài sản của công dân.
- Dùng vũ lực ở đây có thể hiểu là dùng sức mạnh về vật chất (có thể có hay không có vũ khí) để chủ động tấn công chủ thể đang sở hữu tài sản mà người đó muốn chiếm đoạt. Hành vi tấn công ở đây là nhằm làm mất khả năng chống cự của chủ thể sở hữu để chiếm đoạt được ...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H [Free] Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Tiểu luận Bình luận vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực Tài liệu chưa phân loại 0
K [Free] Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh Tài liệu chưa phân loại 2
J [Free] Tiểu luận Quy định của pháp luật về lãi xuất Tài liệu chưa phân loại 0
D [Free] Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] Tiểu luận Các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Chương II Luật Đầu tư Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Phân biệt hai loại hình kinh doanh: doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Tiểu luận Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Tài liệu chưa phân loại 2
T [Free] Tiểu luận Pháp luật tư sản và sự phát triển của nó Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Tiểu luận Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top