musvn_fanleague

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối


Mục lục
I. Mở đầu.
II. Nội dung.
1. Khái quát chung về pháp luật thuế.
1.1. Khái niệm pháp luật thuế.
1.2. Mô hình pháp luật thuế.
2. Vai trò của pháp luật thuế.
3. Thực trạng pháp luật thuế.
3.1. Thành tựu pháp luật thuế.
3.2. Hạn chế của pháp luật thuế.
4. Giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
4.1. Xây dựng hệ thống pháp luật nhằm giữ vững nguồn thu từ thuế trong kết cấu NSNN.
4.2. Tuân thủ các nguyên tắc chung của pháp luật thuế.
4.3. Đảm bảo mức độ tương thích của hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hay tham gia.
4.4. Đảm bảo thực hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.
4.5. Đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả, trung lập của các loại thuế.
4.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
III. Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.

I. Mở đầu.
Thuế và nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng nhau, chi phối và phụ thuộc nhau. Vì vậy, thuế vừa được hiểu là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại của nhà nước và bộ máy nhà nước; mặt khác, thuế lại được nhà nước sử dụng như là loại công cụ để thực hiện những nhiệm vụ mục tiêu nhất định.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
II. Nội dung.
1. Khái quát chung về pháp luật thuế
1.1. Khái niệm pháp luật thuế.
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được hiệu quả điều chỉnh cao.
Đặc điểm của pháp luật thuế:
- Các quan hệ do pháp luật thuế điều chỉnh luôn mang tính chấp hành và điều hành.
- Luật thuế sử dụng phương pháp mệnh lệnh quyền uy để điều chỉnh các quan hệ phát sinh.
1.2. Mô hình pháp luật thuế.
Pháp luật thuế của mỗi quốc gia nói chung và pháp luật thuế Việt Nam nói riêng, nhìn dưới giác độ mô hình được cấu thành bởi hai bộ phận chính là các quy phạm của luật quốc tế mà quan trọng và chủ yếu nhất là các điều ước quốc tế về lĩnh vực thuế mà Việt Nam kí kết hay tham gia và các quy phạm luật quốc gia. Hai bộ phận này cấu thành nên một chỉnh thể thống nhất và có mối quan hệ ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong quan hệ quốc tế hiện đại, sự phát triển của các quy phạm pháp luật trong đó có các điều ước quốc tế về thuế phụ thuộc rất nhiều vào mức độ quyền lợi chung mà các quốc gia hướng tới, trên cơ sở lợi ích từng quốc gia, dân tộc. Thước đo lợi ích là điều kiện quan trọng để thúc đẩy sự hợp tác phát triển giữa các quốc gia, làm cho sự chi phối của quốc gia luôn mang tính quyết định hướng phát triển, đồng thời tạo ra những bảo đảm cơ bản để luật quốc tế được thực thi trong điều kiện mỗi quốc gia.
Tác động ngược trở lại của điều ước quốc tế về thuế: thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện luật trong nước.
2.Vai trò của pháp luật thuế.
Mặc dù bất kì nhà nước có chủ quyền nào cũng được quyền đánh thuế nhưng để nguồn thu từ thuế trở thành hiện thực, nhà nước phải sử dụng pháp luật như là công cụ hữu hiệu và đặc thù nhất của mình để giải quyết các mục tiêu định trước. Có thể chỉ ra hệ thống pháp luật thuế có vai trò cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lí quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước.
Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể đủ điều kiện. Điều này có nghĩa nguồn thu từ thuế chỉ có thể có được khi các bên thực hiện đúng quy định pháp luật thuế. Vấn đề đặt ra, pháp luật thuế có vai trò đến đâu và cần tồn tại ở mức độ thế nào để đáp ứng về nguồn thu ngân sách nhà nước.
Trước hết, cần khẳng định nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo kết quả nghiên cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kì, ở các quốc gia đã cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước” như một lí do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách nhà nước, phải đảm nhiệm cho hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ mays nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Điều này lí giải cơ cấu cân đối ngân sách nhà nước được pháp luật ghi nhận. Điều 8 Luật ngân sách nhà nước quy định rõ “ Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào đầu tư phát triển”. Với những lí do đó, bất kì quốc gia nào cũng cần có và mong muốn có được hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lí vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếptới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lí hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai, pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kì nhất định của nhà nước.
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lí, điều tiết tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó thực hiện công bằng xã hội. Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, cá nhân có thể tồn tại và vận động theo nhu cầu và lợi ích của họ, điều này có thể tổn thương đến trật tự xã hội cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn, ở mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp luật thuế có thể làm thay đổi hay can thiệp gián tiếp vào hoạt động, vào quyết định đầu tư của các chủ thể nhằm đạt tới mục tiêu nhất định của nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật thuế, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế có những quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng bị hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng tới cơ hội tìm kiếm thu nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu chuyển vốn từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Pháp luật thuế các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu trên. Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất khác nhau đối với từng ngành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể tác động đến các ngành, nghề, qua đó đảm bảo sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau tuỳ theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hoá, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện tại; trong khi đó lại khuyến khích tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hoá, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội.
Thứ ba, nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lí thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn với chế độ chứng từ hoá đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lí nền kinh tế; trên cơ sở đó có hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lí kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
Tóm lại, pháp luật thuế ra đời do yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thuế. Nói cách khác, pháp luật thuế ra đời là do đòi hỏi của chính các quan hệ thuế. Đến lượt mình, pháp luật thuế tác động trở lại làm cho các quan hệ thuế phát sinh, phát triển theo chiều hướng mong muốn. Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế hiện nay, pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng có vai trò quan trọng trong việc kiến tạo một môi trường chính trị, kinh tế-xã hội ổn định, tiến bộ làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho công cuộc hội nhập và phát triển thành công.
3. Thực trạng pháp luật thuế
3.1. Thành tựu của pháp luật thuế
Trong tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, pháp luật thuế đã có những tác động đáng kể đến sự phát triển của nền kinh tế. Cho tới nay việc thực thi hệ thống pháp luật thuế đã đạt được những thành tựu nhất định.
Thứ nhất, pháp luật thuế hiện hành của Việt Nam về căn bản là pháp luật thuế của một nền kinh tế thi trường, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật thuế đã thể hiện được quan điểm của nhà nước trong việc khuyến khích quyền tự do kinh doanh của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế, đến từ trong và ngoài nước. Cụ thể, là các luật thuế hiện hành không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong nước, giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài về nghĩa vụ nộp thuế (trừ thuế thu nhập cá nhân); đã quy định các mức thuế phù hợp để giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế và đơn giản hoá thủ tục thuế…
Thứ hai, pháp luật thuế đã thể chế hoá các quan điểm, chính sách về thuế kịp thời đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kì. Pháp luật thuế hiện hành đã thể hiện rõ vai trò thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nhìn chung, về phương diện lí luận, hệ thống thuế của Việt Nam có cơ cấu tương đối hợp lí, đảm bảo bao quát hết nguồn thu, với ba nhóm thuế: thuế đánh vào tiêu dùng, thuế đánh vào thu nhập, thuế đánh vào tài sản. Nhờ đó, tỷ trọng các khoản thu từ thuế trong tổng thu ngân sách nhà nước ngày càng tăng. Bên cạnh đó, pháp luật thuế cũng đã được ban hành mới, sửa đổi bổ sung kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Thứ ba, pháp luật thuế về căn bản được xây dựng đồng bộ với các mảng pháp luật khác trong hệ thống pháp luật về kinh tế. Trước hết, pháp luật thuế là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật kinh tế. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế không thể tuỳ tiện mà phải kết hợp hài hoà với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thương mại, đầu tư và đất đai…Về phương diện này, pháp luật thuế hiện hành đã căn bản đồng bộ với luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật đất đai và các luật có liên quan khác. Pháp luật thuế hiện hành mang tính ổn định và góp phần tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch và hấp dẫn các nhà đầu tư và làm các nhà đầu tư nước ngoài an tâm về môi trường kinh doanh của Việt Nam.
Thứ tư, pháp luật thuế đã từng bước phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam. Hội nhập quốc tế đề ra yêu cầu sửa đổi hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật thuế nói riêng. Trong những năm qua hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương về thương mại và về khu vực mậu dịch tự do. Điển hình là những sửa đổi, bổ sung trong luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo các cam kết của Việt Nam trong khu vực mậu dịch tự do AFTA ; sửa đổi bổ sung luật thuế tiêu thụ thụ đặc biệt, luật thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, nhập khẩu sau khi Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Bên cạnh đó, việc Việt Nam kí kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần với gần 60 nước trên thế giới để đảm bảo và khuyến khích đầu tư cũng đã là những bước tiến quan trọng trong các quan hệ song phương về thuế.


3.2 Hạn chế của pháp luật thuế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật thuế Việt Nam vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập:
Thứ nhất, trong từng sắc thuế hiện hành vẫn còn có các quy định không công bằng và chưa bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế khác nhau; thuế nhìn chung vẫn thiên về chức năng bảo hộ (thiếu khoa học và chọn lọc) và thu ngân sách nhà nước là chủ yếu mà chưa chú trọng thoả đáng đối với chức năng điều tiết kinh tế và hướng dẫn tiêu dùng của thuế.
Ví dụ , đối với thuế TTĐB việc áp dụng các mức thuế suất khác nhau phân biệt giữa thuốc lá có đầu lọc và thuốc lá không có đầu lọc bởi như quy định hiện hành thuốc lá không có đầu lọc (có hại cho sức khoẻ nhiều hơn thuốc lá có đầu lọc) lại được hưởng mức thuế suất thấp hơn thuốc lá không có đầu lọc (25% so với 45% và 65%) là không hợp lí.
Thứ hai, dưới giác độ hội nhập, có thể nhận thấy pháp luật thuế Việt Nam hiện hành còn một số ít nội dung chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa đảm bảo tính tương thích với hệ thống thuế của các nước trong khu vực.
Thứ ba, pháp luật thuế của nước ta còn phức tạp, thiếu tính hệ thống, chưa thể hiện sự đơn giản, rõ ràng và minh bạch; đồng thời thiếu tính ổn định cần thiết do thường xuyên phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu thực tế.
Thứ tư, hệ thống thuế đang phải phục vụ quá nhiều mục tiêu: kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội do đó mất đi tính trung lập cần thiết-một trong những yếu tố dẫn tới sự hiệu quả trong phân bổ nguồn lực.
Thứ năm, công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế có những thành công bước đầu song để đạt được mục tiêu đề ra thì còn rất nhiều việc phải làm trong thời gian tới, cũng như trong công cuộc cải cách hành chính nói chung đang từng bước được triển khai thực hiện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ sáu, tính thực thi, hiệu quả của pháp luật thuế nhìn chung chưa cao; một số quy định gián tiếp làm phát sinh các hiện tượng tiêu cực xã hội (như các khe hở pháp lí dẫn đến hiện tượng luồn, lách luật…)
Những tồn tại nêu trên, dù muốn hay không cũng cần được xem xét như một lời thông báo cần thiết và hữu ích cho việc phát huy vai trò của pháp luật thuế ở Việt Nam trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập, đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4.Giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
4.1. Xây dựng hệ thống pháp luật thuế nhằm giữ vững vị trí nguồn thu từ thuế trong kết cấu NSNN.
Xuất phát từ cội nguồn xuất hiện thuế và vai trò của thuế trong kết cấu nguồn thu ngân sách, bất kì quốc gia nào cũng mong muốn đạt tới số thu từ thuế ngày càng tăng trưởng. Kết quả nghiên cứu về lịch sử phát triển của thuế qua các thời kì, ở các quốc gia cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Hệ thống pháp luật thuế đang tạo cơ sở pháp lí cho việc hình thành nguồn thu ổn định với tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước. Thu từ thuế đã thực hiện được nguyên tắc cân đối: các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu bắt buộc khác không những đảm bảo chi trả cho toàn bộ các khoản chi thường xuyên mà còn đáp ứng một phần cho chi đầu tư phát triển. Tuy nhiên, với hệ thống pháp luật thuế hiện hành cùng với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ phải thực hiện nguồn thu từ thuế có thể bị giảm sút. Sự giảm sút không chỉ là hệ quả của việc sửa đổi thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà còn là hệ quả của việc sửa đổi các khoản thu từ thuế nội địa. Hàng ngàn dòng thuế của thuế nhập khẩu đang ở mức thuế suất cao nay phải cắt giảm theo cam kết làm giảm số thu tuyệt đối từ thuế nhập khẩu. Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cũng hạ thấp hơn, cơ sở tính thuế cũng được xác định lại làm cho số thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt giảm đáng kể. Bên cạnh đó việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung một số loại thuế khác chắc chắn cũng làm giảm số thu từ thuế so với hiện tại. Chẳng hạn như, luật thuế thu nhập cá nhân được ban hành sẽ làm giảm diện chịu thuế thu nhập doanh nghiệp; số các nhà kinh doanh cá thể không nằm trong diện phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là con số rất đáng kể so với việc các đối tượng kinh doanh thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên cạnh những khó khăn nhất định đặt ra cho hệ thống nguồn thu từ thuế, mục tiêu thu trong các năm tiếp theo lại có xu hướng tăng. Trước thực tế đó yêu cầu đặt ra cho hệ thống pháp luật thuế là phải tìm ra các giải pháp chủ yếu để tăng nguồn thu từ thuế, phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Cụ thể:
nên chia nhỏ như hiện nay làm cho biểu thuế TTĐB phức tạp và khó áp dụng. Cần xoá bỏ thuế suất thuế TTĐB theo quy định hiện hành phân biệt giữa thuốc lá có nguyên liệu nhập khẩu trên 51% với thuốc lá có nguyên liệu chủ yếu trong nước (vì quy định như vây vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia). Phải áp dụng thống nhất quy định giá tính thuế đối với hàng hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB như quy định tại Điều 6 của luật thuế TTĐB, theo đó giá tính thuế là do cở sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế TTĐB, tức là giá tính thuế bao gồm cả chi phí bao bì vỏ hộp.
- Đối với thuế thu nhập cá nhân.
Cần quy định cụ thể hơn mức giảm trừ gia cảnh
Cần quy định rõ hơn các khoản chi phí khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế (chi phí nghề nghiệp, hoàn cảnh bản thân, chi phí cho y tế, giáo dục…)
- Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp.
Cần loại bỏ quy định liên quan đến ưu đãi thuế do sử dụng nhiều lao động nữ, cần quy định ưu đãi cho việc sử dụng lao động địa phương, cho phép trừ đối với các khoản chi phí liên quan đến an sinh của người lao động.
Cần bổ sung loại thu nhập từ hành vi chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần nếu phát sinh thu nhập nhưng phải trừ đi các khoản chi phí gắn với hoạt động này.
- Đối với thuế giá trị gia tăng.
Cần quy định rộng hơn về các mặt hàng thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng.
Nên áp dụng một mức thuế suất cho tất cả các mặt hàng để đảm bảo tính công bằng và tính khả thi trong việc áp dụng.
Cần cải tiến để đi đến thống nhất sử dụng một phương pháp tính thuế.
Xây dựng tiêu chí rõ ràng, điều kiện, thời hạn hoàn thuế.
Bên cạnh đó, cũng phải sửa đổi một số luật thuế khác nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Phát huy vai trò của pháp luật thuế phải phản ánh được xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình quản lí thu và nộp thuế. Bằng những quy định ưu đãi thuế, miễn thuế, giảm thuế cho các chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực đặc bịêt khuyến khích đầu tư, hệ thống pháp luật tác động tới luồng chu chuyển vốn của nhà đầu tư vào các lĩnh vực mới, cần khuyến khích phát triển.
Tiếp theo, đặc biệt thu hút, động viên sức đóng góp của dân chúng thông qua các khoản thu từ thuế, tăng tính tích luỹ nội lực. Phù hợp với nền kinh tế chuyển đổi thu nhập người dân còn ở mức độ chưa cao, vì vậy cần cân nhắc cơ cấu của nguồn thu từ thuế gián thu và nguồn thu từ thuế trực thu. Việc coi trọng nguồn thu từ thuế gián thu là hoàn toàn đúng đắn nhưng khi mức thu nhập xã hội tiến lên cấp độ mới, việc thay đổi cơ cấu hai loại thuế này lại hoàn toàn cần thiết.
4.5. Đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả, trung lập của các loại thuế.
Hệ thống pháp luật thuế ngoài yêu cầu ổn định về thời gian, cơ sở pháp lí cho các quan hệ pháp luật thuế còn phải đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng và đồng bộ. Để thực hiện được yêu cầu này các quy phạm pháp luật phải cụ thể, đơn giản, dễ hiểu, tránh sự mâu thuẫn, chồng chéo. Điều này là cơ sở để thực hiện nguyên tắc hiệu quả của pháp luật thuế. Tính hiệu quả liên quan đến chi phí phải trả cho quá trình hành thu và kết quả thu được từ thuế và các kết quả gián tiếp khác từ nền kinh tế xã hội. Một luật thuế được coi là có hiệu quả khi chi phí bỏ ra cả chi phí hành chính và chi phí xã hội là thấp nhất trong khi đó số tiền thu được từ thuế là cao nhất. Để một pháp luật thuế có hiệu quả khi phản ánh được các điều kiện kinh tế xã hội, đảm bảo khả năng đóng góp của các đối tượng nộp thuế. Khi luật thuế được xây dựng có tính đến khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế có nghĩa là đã tính tới tính trung lập của thuế.
4.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan thuế nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lí kịp thời những vi phạm về thuế. Các cơ quan thanh tra ngành thuế cần tiến hành phân loại các đối tượng nộp thuế trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra của mình theo mức độ rủi ro về tình trạng thất thu thuế và về độ tín nhiệm của các đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Ngoài ra, cần có quy định thống nhất về việc tổ chức thanh tra, kiểm tra sao cho hạn chế thấp nhất việc gây phiền hà, khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đối tượng nộp thuế, theo đó chỉ có cơ quan thuế là cơ quan chức năng duy nhất có quyền tiến hành thanh tra, kiểm tra các đối tượng nộp thuế về việc chấp hành và thực hiện các nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.

III. Kết luận.
Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế như một lẽ tất yếu. Công cuộc hội nhập thời gian qua đã đem lại cho chúng ta những thành tựu lớn lao chưa từng có, làm cho một đất nước vốn cùng kiệt nàn, lạc hậu và chịu nhiều đau khổ trong các cuộc chiến tranh đang thay da đổi thịt từng ngày. Thế nhưng vẫn còn đó những khó khăn thách thức không nhỏ, những yêu cầu đang ngày càng trở nên cấp thiết đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp kịp thời để hoàn thiện. Phát huy vai trò của pháp luật thuế để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế không nằm ngoài những yêu cầu đó.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D quản lý nhà nước đối với cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Văn hóa, Xã hội 0
H Em nhờ ad tải hộ em Luận văn thạc sĩ quản lý nhà nước đối với cơ sở du lịch trên địa bàn thành phố hồ chí minh Sinh viên chia sẻ 1
D Mô tả quá trình quản lý chất lượng và minh họa bằng bộ chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục Luận văn Sư phạm 0
D Quản lý nhân sự-lương trên hệ quản trị cơ sở dữ liệu MICROSOFT ACCESS Công nghệ thông tin 0
D Giáo trình Kỹ thuật sấy nông sản - Cơ sở lý thuyết của quá trình sấy Nông Lâm Thủy sản 0
D CƠ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Luận văn Kinh tế 0
D Quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở Tiên Thanh, thành phố Hải Phòng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục Luận văn Sư phạm 0
D Cơ sở lý luận về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Luận văn Kinh tế 0
D Cơ sở lý luận về công tác tuyển dụng nguồn nhân lực trong tổ chức Quản trị Nhân lực 0
D Cơ sở lý luận về công tác tuyển dụng nhân lực Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top