Download Luận văn Phân tích tình hình tín dụng lĩnh vực ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Tỉnh Vĩnh Long

Download Luận văn Phân tích tình hình tín dụng lĩnh vực ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Tỉnh Vĩnh Long miễn phí





Nền kinh tế Vĩnh Long trong thời gian qua gặp rất nhiều khó khăn như: Giá các mặt hàng lương thực, nông thuỷ hải sản không ổn định ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và đời sống của người dân, dịch cúm gia cầm xảy ra trên diện rộng và kéo dài, giá cả của một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống như xăng, dầu, thép phân bón tiếp tục tăng cao. Tuy nhiên, với sự phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên trong chi nhánh đã nỗ lực thực hiện công tác tín dụng ngày càng phát triển góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế địa phương, doanh số cho vay của chi nhánh được thể hiện thông qua kết quả theo bảng tổng hợp dưới đây.



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

62.130
42
538.699
57
634.229
54
76.569
17
95.530
18
Vốn điều hoà
636.741
58
390.470
43
538.345
46
-246.271
-39
147.875
38
Tổng cộng
1.098.844
100
929.169
100
1.172.574
100
-169.675
-15
243.405
27
(Nguồn: Phòng khách hàng)
Hình 2:Biểu đồ cơ cấu nguồn vốn qua 3 năm
Qua bảng số liệu trên ta thấy cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng có tăng, có giảm qua 3 năm, cụ thể năm 2005 tổng nguồn vốn ngân hàng đạt 1.098.844 triệu đồng, sang năm 2006, nguồn vốn ngân hàng đạt 926.169 triệu đồng, giảm 169.675 triệu đồng, tỷ lệ giảm 15% so với năm 2005, đến năm 2007 nguồn vốn này lại tăng lên và đạt 1.172.574 triệu đồng , tăng 243.405 triệu đồng, tỷ lệ tăng 58% so với năm 2006. Nguyên nhân dẫn đến việc tăng giảm không đều nguồn vốn của ngân hàng qua 3 năm là do ảnh hưởng trực tiếp từ nền kinh tế, nên ngân hàng đã chủ đông thay đổi chính sách huy động vốn để mang lại hiệu quả cao nhất cho ngân hàng.
Trong năm 2005, nguồn vốn điều lệ chiếm tỷ trọng cao 58% trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, vốn huy đông chiếm tỷ trong nhỏ hỏn 42%, do trong năm này tình hình huy động vốn của ngân hàng không được tốt lắm, nên phải sử dung nhiều nguồn vốn điều hòa từ ngân hàng mẹ để kinh doanh, viêc sử dụng vốn điều hoà sẽ phải trả thêm một mức phí cho ngân hàng mẹ, mà lợi phí này bằng với tiền vay không kì hạn, từ đó dẫn đến phát sinh chi phí cao. Vì thế, sang năm 2006, ngân hàng đã chủ động giảm tỷ trọng của vốn điều lệ giảm 39%so với năm 2005, và đạt tỷ trọng 43% trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, mặc khác vốn huy động cũng tăng lên và đạt 57% trong tổng nguồn vốn. Đến năm 2007, cả nguồn vốn điều hòa và nguồn vốn huy động đều tăng lên, cụ thể vốn điều hòa tăng 38% so với năm 2006, vốn huy động tăng 18% so với năm 2006. Nguyên nhân dẫn đến nguồn vốn tăng như vậy là do theo chỉ thị của nhà nước đến năm 2010 Tỉnh Vĩnh Long sẽ được nâng cấp thành Thành phố loại ba, đây là một điều đáng mừng cho Tỉnh nhà, và trong thời gian tới việc đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông, thuỷ lợi, các khu công nghiệp, cụm tuyến dân cư… là rất phổ biến. Chính vì thế, nhu cầu về vốn để xây dựng là rất lớn đòi hỏi ngân hàng phải huy động vốn tối đa để đáp ứng được nhu cầu trên. Bên cạnh đó nhiều nơi đã được huy hoạch chỉnh trang sữa chữa lại dẫn đến việc người dân được tiền bồi thường, do đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư tăng lên tạo điều kiện cho ngân hàng tăng nguồn vốn huy động tại chỗ.
Nếu vấn đề khó khăn của các doanh nghiệp là kết hợp các yếu tố đầu vào để tạo thành các sản phẩm dịch vụ mới hơn nhằm mục đích phục vụ tốt hơn cho người tiêu dùng, thì vấn đề nan giải của khối ngân hàng là làm sao tăng hiệu quả của việc huy động vốn để tạo điều kiện cung cấp vốn cho các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất để làm cho nền kinh tế phát triển. Thực hiện vai trò của một tổ thức trung gian tài chính ngân hàng sẽ đi vay những người có thừa vốn để cho các tổ chức cần vốn vay lại. Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ tài chính tiền tệ cho nền kinh tế. Vì thế hoạt động huy động vốn của ngân hàng không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng mà còn có ý nghĩa đối với xã hội. Thông qua việc huy động vốn sẽ tạo nguồn vốn phục vụ cho các hoạt động đầu tư và cho vay đối với các tổ chức kinh tế. Ngoài ra ngân hàng còn là nơi giữ tiền an toàn cho người thừa vốn.
Đối với lĩnh vực huy động vốn chúng ta đã phân tích ở phía trên. Ở phần này, chúng ta đi sâu hơn vào các thành phần của lĩnh vực huy động vốn để thấy được điểm mạnh, điểm yếu của lĩnh vực này, đối với lĩnh vực này chúng ta có 2 loại huy động vốn chính: tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của doanh nghiệp.
Bảng 4: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
Đơn vị tính: Triệu Đồng
Chỉ Tiêu
2005
2006
2007
Chênh lệch
2006-2005
Chêch lệch
2007-2006
Số Tiền
%
Số Tiền
%
I.Tiền gửi dân cư
311.193
369.573
415.593
58.380
19
53.020
15
1.Tiền gửi tiết kiệm
284.865
321.776
400.564
36.911
13
78.788
24
-Không kỳ hạn
4.480
1.937
3458
-2.543
43
1.521
78
-Có kỳ hạn
280.382
319.839
397.106
39.457
14
77.267
24
2. Kỳ phiếu
26.328
47.797
15.029
21.469
82
-32.768
-68
II.Tiền gửi của Doanh nghiệp
150.937
169.129
218.636
18.189
12
49.507
29
-Không kỳ hạn
92.659
95.133
123.985
2.474
3
28.852
30
-Có kỳ hạn
58.278
73.993
94.651
15.715
27
20.658
28
Tổng vốn huy động
462.130
538.695
634.229
76.569
17
95.534
17
( Nguồn:phòng khách hàng)
Dựa vào bảng số liệu trên ta thấy, tiền gửi ở khu vực dân cư luôn chiếm tỷ trọng cao hơn tiền gửi doanh nghiệp trong tổng nguồn vốn huy động. Mặc dù chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các tổ chức tín dụng khác trên cùng địa bàn nhưng lượng tiền gửi của dân cư vẫn luôn ổn định và có xu hướng tăng lên qua 3 năm, tiền gửi dân cư là nguồn vốn mà ngân hàng phải khai thác nhiều hơn bởi tính ổn định của nó. Cụ thể là, đến cuối năm 2005, số dư tiền gửi dân cư là 311.193 triệu đồng, năm 2006 tiền gửi từ khu vực này tiếp tục tăng 58.380 triệu đồng số tuyệt đối, ứng với tỷ lệ 19% về số tương đối so với năm 2005. Tiền gửi của khu vực dân cư lại tiếp tục tăng vào năm 2007, cụ thể tăng 53.020 triệu đồng về số tuyệt đối, ứng với tỷ lệ tăng 15% về số tương đối so với năm 2006. Nguyên nhân của việc gia tăng tiền gửi ở khu vực dân cư là do hiện nay nền kinh tế đã có sự phát triển tương đối cao, đời sống của dân cư cũng được nâng lên đáng kể. Do vậy, người dân có vốn tích luỹ tạm thời nhàn rỗi, họ có ý thức trong việc giữ đồng tiền của mình sao cho an tòan lại có khả năng sinh lãi nên họ chọn biện pháp gửi tiền trong ngân hàng .
Tiền gửi dân cư gồm 2 phần tiền gửi tiết kiệm và phát hành kì phiếu, trong đó:
- Tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng cao và tăng liên tục qua các năm, cụ thể năm 2005 là 284.865 triệu đồng, năm 2006 đạt 321.776 triệu đồng tăng 36.911 triệu đồng số tuyệt đối, tỷ lệ tăng 13% so với năm 2005, năm 2007 tăng so với năm 2006 là 78.788 triệu đồng số tuyệt đối, tỷ lệ tăng 24% về số tương đối.
- Việc phát hành kì phiếu qua 3 năm không ổn định: Năm 2005 đạt 26.328 triệu đồng, năm 2006 đạt 47.797 tăng 21.496 triệu đồng về số tuyệt đối, tỷ lệ tăng 81% số tương đối. Năm 2007, lượng kì phiếu phát hành giảm 32.765 triệu đồng số tuyệt đối, tỷ lệ giảm 68% số tương đối. Sự không ổn định của hình thức huy động vốn bằng phát hành kì phiếu này là do chính sách huy động vốn của mỗi thời kì là khác nhau, tuỳ theo nhu cầu vốn ở từng thời điểm mà ngân hàng đề ra chính sách huy động cho phù hợp, điều đó tạo nên sự chuyển dịch vốn qua lại giữa các hình thức với nhau, như năm 2006 do ngân hàng phải cho vay các doanh nghiệp ở khu công nghiệp Hoà Phú vừa mới đi vào hoạt động và một số doanh nghiệp gốm xuất khẩu ở tuyến sông Cổ Chiên nên lượng vốn ngân hàng cần trong thời gian này là rất lớn. Vì thế ngân hàng đã phát hành kì phiếu với lãi suất cao, ngoài phần tăng lên do người dân gửi tiền vào còn có thêm phần tăng lên do sự chênh lệch ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top