daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Phạm vi nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Đóng góp đề tài
5. Kết cấu của đề tài
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
1. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện là nguyên lí về mối liên hệ phổ
biến
1.1. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
1.2. Các tính chất của mối liên hệ
1.2.1. Tính khách quan của mối liên hệ
1.2.2. Tính phổ biến của mối liên hệ
1.2.3. Tính đa dạng và phong phú của mối liên hệ

1.3. Ý nghĩ phương pháp luận cảu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2. Quan điểm toàn diện
2.1. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
2.2. Nội dung của quan điểm toàn diện
2.3. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con người
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔi
MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục
1.1 Thực trạng nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay
1.2 Những yêu cầu cấp bách cần thiết phải đổi mới giáo dục
2. Ý kiến hướng đi và giải pháp cho đổi mới giáo dục ở Việt Nam
2.1 Định hướng đổi mới
2.2 Nhiệm vụ, giải pháp và tổ chức thực hiện
Tài liệu tham khảo
2
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, khi Đảng và nhà nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới
toàn diện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa , phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa hội nhập quốc tế, trong bối cảnh có
nhiều cơ hội và thách thức lớn. Thực tiễn đó đặt ra nhiều vấn đề đổi mới đối
với sự lãnh đạo của Đảng, trong đó vấn đề quan trọng là đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục và đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
Để thực hiện được sự đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào
tạo thì Đảng ta phải có phương hướng, chính sách, quan điểm phù hợp và phải
đứng trên quan điển toàn diện để đổi mới.
Quan điểm toàn diện mà cơ sở lý luận của nó là nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến là một trong những nội dung quan trọng của phép biện chứng duy vật
Mác xít, là cẩm nang giúp chúng ta tránh được những đánh giá phiến diện, sai

lệch giản đơn về sự vật, hiện tượng. Nguyên lý này chỉ rõ tất cả các sự vật, hiện
tượng đều nằm trong mối liên hệ. Vì vậy nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
phép biện chứng duy vật có vai trò lớn trong chỉ đạo vấn đề đổi mới giáo dục
và đào tạo.
Nhằm có được nhận thức đúng đắn hơn về định hướng của Đảng và Nhà
nước trong nhiệm vụ đổi mới giáo dục ở Việt Nam, tui đã lựa chọn đề tài “Vận
dụng quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới giáo dục ở Việt Nam
Hiện nay”.
2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài tập trung nghiên cứu sự vận dụng quan điểm toàn diện của Đảng
ta về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa , phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế.
3
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, đặc biệt là quan điểm toàn diện với cơ sở lý luận là về mối liên hệ
phổ biến của phép biện chứng duy vật của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác –
Lênin, quan điểm của Đảng ta để vận dụng trong đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo.
4. ĐÓNG GÓP ĐỀ TÀI
Về lý luận: Bài luận là sự khái quát về quan điểm toàn diện và sự vận
dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa , phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Về thực tiễn: Bài luận có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những
người học tập, nghiên cứu cho nội dung liên quan.
5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài được kết cấu với 2 chương và 4 tiết

Chương 1: Lý luận chung về quan điểm toàn diện
1.1. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện là nguyên lí về mối liên hệ
phổ biến
1.2. Quan điểm toàn diện
Chương 2: Quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới giáo dục ở Việt
Nam hiện nay
2.1. Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục
2.2. Ý kiến hướng đi và giải pháp cho đổi mới giáo dục ở Việt Nam
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
1. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện là nguyên lí về mối liên hệ phổ
biến
1.1. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Theo quan điểm siêu hình, các sự vật hiện tượng tồn tại một cách tách
rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc, không
có sự ràng buộc lẫn nhau, những mối liên hệ có chăng chỉ là những liên hệ
hời hợt, bề ngoài mang tính ngẫu nhiên. Một số người theo quan điểm siêu
hình cũng thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó nhưng laị phủ nhận
khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Ngược lại, quan điểm biện chứng cho rằng thế giới tồn tại như một
chỉnh thể thống nhất. Các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế
giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển
hoá lẫn nhau.
Nếu cắt nghĩa từng chữ, theo từ điền Tiếng Việt, thì “mối” là “ đoạn đầu
của sợi dây, sợi chỉ dùng để buộc thắt lại với nhau; chổ nối , chổ thắt, chổ từ đó
có thể quan hệ với một tổ chức, cơ sở liên lạc”. Còn “liên hệ” là chỉ sự vật, sự
việc có quan hệ làm cho ít nhiều tác động đến nhau, dựa trên những mối quan
hệ nhất định”. Như vậy, mối liên hệ có thể được hiểu theo cách là sự quan hệ
qua lại và tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự

nhiên, xã hội và tư duy theo một cách thức, con đường của nó.
Tóm lại, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên hệ là phạm trù
triết học dùng để chỉ sự qui định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Theo quan điểm này, các
sự vật hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, khác nhau như thế nào đi
chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế
giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả ý thức, tư tưởng của con người
vốn là những cái phi vật chất cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có
5
tổ chức cao nhất là bộ óc con người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả
phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
1.2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính
đa dạng phong phú.
1.2.1. Tính khách quan của mối liên hệ
Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có của
mọi sự vật hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng đang ngày hàng
ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác nhau (như ánh
sáng, nhiệt độ, độ ẩm…) tự nhiên, dù muốn hay không, cũng luôn luôn bị tác
động bởi các sự vật hiện tượng khác. Như vậy, theo quan điểm biện chứng duy
vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách
quan. Do đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và chuyển hóa lẫn nhau
của các sự vật, hiện tượng (hay trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó,
tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người, con người chỉ có thể
nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
1.2.2. Tính phổ biến của mối liên hệ
Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
- Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng
khác, không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại

ngày nàykhông có một quốc gia nào không có quan hệ, liên hệ với các quốc
gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội và ngay cả Việt Nam ta khi tham gia
tích cực vào các tổ chức như ASEAN, hay sắp tưói đây là WTO cũng không
ngoài mục đích là quan hệ, liên hệ, giao lưu với nhiều nước trên thế giới.
- Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt cụ thể tuỳ theo
điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện
của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
1.2.3. Tính đa dạng và phong phú của mối liên hệ
6
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính phổ biến, tính
khách quan của sự liên hệ , mà còn chỉ ra tính đa dạng của nó. Các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ
vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó. Mặt khác, cùng một
mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác
nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật thì cũng có tính chất và vai trò khác nhau. Do đó, không thể đồng nhất tính
chất, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định,
trong những điều kiện khác nhau… Có mối liên hệ bên ngoài, tức là sự liên hệ
của các sự vật, hiên tượng với nhau. Có mối lên hệ bên trong, tức là sự liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận, các quá trình
bên trong sự vật, cấu thành sự vật. Có những mối liên hệ chung của thế giới, lại
có những mối liên hệ riêng biệt trong từng lĩnh vực, từng sự vật, từng hiên
tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hay nhiều sự vật, hiện tượng; lại
có những mối liên hệ gián tiếp, trong đó các sự vật hiện tượng liên hệ, tác động
qua lại lẫn nhau phải thông qua một hay nhiều khâu trung gian. Có mối liên hệ
tất nhiên lại có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ cơ bản, thuộc về bản
chất của sự vật, đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật; lại
có mối liên hệ không cơ bản, chỉ đóng vai trò hỗ trợ, bổ sung cho sự tồn tại và
phát triển của nó. Trong từng giai đoạn phát triển của sự vật có mối liên hệ chủ
yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật trong giai đoạn đó, lại có mối

liên hệ thứ yếu. Các sự vật, hiện tượng trải qua giai đoạn phát triển khác nhau.
Chính sự liên hệ tác động qua lại của các giai đoạn kế tiếp nhau ấy quyết định
tính liên tục trong quá trình vận động, biến đổi, phát triển của chúng, tuỳ theo
phương hướng của sự tác động mà có mối liên hệ thuận chiều, ngược chiều,
mối kiên hệ đơn hay mối liên hệ kép…
Như vậy, sự liên hệ tác động qua lại của các sự vật, hiện tượng trên thế
giới không những là vô cùng vô tận mà còn rất phong phú, đa dạng và phức
tạp. Đặc biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội, tính phức tạp của sự liên hệ được
nhân lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt của vô vàng các hoạt động có
7
mục đích, có ý thức của con người. Chính vì vậy, mà quá trình nhận thức và
phân loại đúng có mối liên hệ trong xã hội trở nên khó khăn hơn nhiều so với
trong giới tự nhiên.
1.3. Ý nghĩ phương pháp luận cảu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong những nội dung quan
trọng của phép biện chứng duy vật. Đồng thời nó cũng là cơ sở lý luận của
quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể là những quan điểm mang tính
phương pháp luận khoa học trong nhận thức và thực tiễn. Từ việc nghiên cứu
về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng, nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến có ý nghĩa như sau:
Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối
liên hệ với sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng và phức tạp, do
đó, khi nhận thức về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải có quan điểm toàn
diện, để đánh giá đúng về sự vật, hiện tượng, tránh quan điểm phiến diện chỉ
xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay
tính quy luật của chúng.
2. Quan điểm toàn diện
2.1. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và
về sự phát triển rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện

thực. Đó chính là quan điểm toàn diện.
2.2. Nội dung của quan điểm toàn diện
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức
các sự vật hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức
đúng đắn về sự vật hiện tượng. Một mặt, chúng ta phải xem xét nó trong mối
liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của
chính sự vật, hiện tượng đó, mặt khác chúng ta phải xem xét trong mối liên
hệ giữa nó với với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). đề cập đến
hai nội dung này, V.I. Lênin viết "muốn thực sự hiểu được sự vật, cần
8
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián
tiếp của sự vật đó".
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật,
cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất
định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn
những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương
đối, không đầy đủ không trọn vẹn. Có ý thức được điều này chúng ta mới
tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật và tránh xem đó
là những chân lý bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển.
Để nhận thức được sự vật , cần nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, "cần
thiết phải xem xét tất cả mọi mặt để đè phòng cho chúng ta khỏi phạm sai
lầm và sự cứng nhắc."
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở
chỗ nó chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ vẫn có thể là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang
nhaunhững thuộc tính, những quy định khác nhau của của sự vật được thể
hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực
đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển

của sự vật hay hiện tượng đó.
Như vậy, quan điểm toàn diện cũng không đồng nhất với cách xem xét
dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật, hiện tượng. Nó
đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hiện
tượng đó.
Có thể kết luận, quá trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn
với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật sẽ phải trải
qua các giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể để để nhận
thức một mặt, một mối liên hệ nào đó của sự vật rồi đến nhận thức nhiều
9
mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó và cuối cùng, khái quát những tri thức
phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật.
2.3. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con người
Nắm chắc quan điểm toàn diện xem xét sự vật hiện tượng từ nhiều khía
cạnh, từ mối liên hệ của nó với sự vật hiện tượng từ nhiều khía cạnh từ mối
liên hệ với sự vật hiện tượng khác sẽ giúp con người có nhận thức sâu sắc, toàn
diện về sự vật và hiện tượng đó tránh được quan điểm phiến diện về sự vật và
hiện tượng chúng ta nghiên cứu. Từ đó có thể kết luận về bản chất qui luật
chung của chúng để đề ra những biện pháp kế hoạch có phương pháp tác động
phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động của bản thân. Tuy
nhiên, trong nhận thức và hành động chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa các mối liên hệ trong điều kiện xác định.
10
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục
Trong quan niệm về giáo dục của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, giáo
dục không chỉ được coi là cách làm giàu tri thức cho con người, phục
vụ cho xã hội, mà quan trọng hơn, giáo dục là cách thức làm cho con người
được phát triển toàn diện các năng lực của mình. Điều này đã được Việt Nam

quan tâm từ lâu với quan niệm nền tảng coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Song, để đạt được mục tiêu đó, Việt
Nam cần có cải cách trong giáo dục nhiều hơn nữa.
1.1 Thực trạng nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Căn cứ theo “Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”, trong
những năm qua, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cụ
thể là:
a/ Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh
từ mầm non đến đại học.
b/ Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng
bước hiện đại hóa.
c/ Số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và
giáo dục nghề nghiệp.
d/ Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng
hợp lý.
f/ Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt mức 20% tổng chi ngân sách
nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo
ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của
toàn xã hội.
g/ Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, giáo dục - đào tạo còn
tồn tại những khó khăn, yếu kém sau:
11
a/ Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc
phục; chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn
chất lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt;
chưa thực sự là quốc sách hàng đầu.

b/ Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi
mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề
nghiệp; chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
c/ Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục
đạo đức, lối sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người”
và dạy “nghề” vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử
dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống…
d/ Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên
thông, mất cân đối.
e/ Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi
mới, là nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo
dục chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên
các lĩnh vực khác của đất nước.
f/ Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo
đức và năng lực của một bộ phận còn thấp.
g/ Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định
hướng liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng,
chưa xác định rõ phương châm.
h/ Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát
triển đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế;
khoa học giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa
học giáo dục còn nhiều bất cập.
i/ Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng
thành cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham
mưu, thiếu những quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách
được ban hành rồi nhưng chỉ đạo tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn,
kém hiệu quả); một số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí, xa thực
tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
12

Những hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo có nguyên nhân khách
quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là: Tư duy về giáo dục chậm đổi mới, không
theo kịp sự phát triển của đất nước trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Chính sách giáo dục, đào tạo chưa tạo
được động lực, huy động sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội. Không có quy
hoạch phát triển nguồn nhân lực trong quy hoạch và kế hoạch phát triển của đất
nước, các ngành và địa phương. Quản lý giáo dục, đào tạo còn nặng về hành
chính, chưa phát huy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục
và đào tạo, chưa tạo được động lực đổi mới từ bên trong của ngành giáo dục.
Các chủ trương về đổi mới và phát triển giáo dục, đào tạo chậm được cụ thể hóa
và triển khai có hệ thống, đồng bộ. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền và cơ quan
chức năng chưa nhận thức sâu sắc và thực hiện đầy đủ quan điểm “giáo dục và
đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân”, “phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu” và “đầu tư cho giáo dục – đào tạo là đầu tư phát
triển”.
Như vậy, tuy giáo dục đại học Việt Nam đã có những biến chuyển, song
với tốc độ còn quá chậm so với tiến trình đổi mới của đất nước, không theo kịp
tốc độ phát triển của kinh tế xã hội, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của
nhân dân. Cả ở khía cạnh số lượng, chất lượng, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật
chất, giáo trình, chương trình và công tác quản lý đều còn quá nhiều bất cập.Vì
thế, yêu cầu đổi mới toàn diện về giáo dục đại học Việt Nam là hết sức cần
thiết.
1.2 Những yêu cầu cấp bách cần thiết phải đổi mới giáo dục
Quan sát trên các diễn đàn, dưới nhiều góc độ khác nhau, khi nói về hệ
thống giáo dục đại học Việt nam, ý kiến của hầu hết các nhà giáo dục, các nhà
quản lý, các chuyên gia và các nhà doanh nghiệp đều thống nhất ở điểm: Giáo
dục đại học Việt Nam cần thiết phải đổi mới.
Nước ta đang hướng tới đi lên CNH, HĐH trong bối cảnh thế giới có
nhiều thay đổi lớn với các hướng chủ yếu như: hợp tác và phát triển ngày càng
trở thành xu thế chính; phát triển công nghệ chuyển sang nền kinh tế tri thức;

toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế phát triển nhanh chóng. Quy mô và nội
13
dung thực hiện CNH, HĐH rất rộng, bao gồm các ngành, các lĩnh vực kinh tế,
đời sống xã hội ở tầm vĩ mô cũng như vi mô. Địa bàn thực hiện CNH, HĐH rất
rộng và phức tạp với nhiều trình độ phát triển khác nhau; được tiến hành trong
nền kinh tế thị trường. Trong đó yếu tố có tính quyết định là trí tuệ và năng lực
của con người, Đảng ta đã chỉ ra giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là
động lực, là nền tảng để thực hiện CNH, HĐH đất nước, ngành giáo dục - đào
tạo có nhiệm vụ rất lớn là phải mạnh dạng tìm ra những cách đi hoàn toàn mới

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Vận dụng quan điểm dạy học giải quyết vấn đề khi dạy học chương Dòng điện không đổi Vật lí 11 Luận văn Sư phạm 0
D Vận dụng quan điểm kiểm soát quyền lực nhà nước của Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước pháp quyền Môn đại cương 0
D Vận dụng quan điểm của triết học Mác về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội Môn đại cương 0
D vận dụng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề vào các tiết luyện tập về quan hệ vuông góc trong hình học 11 Luận văn Sư phạm 0
D Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể phân tích quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Luận văn Kinh tế 0
C Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, vận dụng vào Việt Nam ta Luận văn Kinh tế 0
L Thuyết quản lý của trường phái quan hệ con người và sự vận dụng vào các doanh nghiệp Việt Nam. Luận văn Kinh tế 2
C Quan hệ điều khiển - Phục tùng, các hình thức điều khiển & sự vận dụng trong quản lý doanh nghiệp Luận văn Kinh tế 0
O Thuyết quản lý của trường phái quan hệ con ngươì và sự vận dụng vào các quan hệ doanh ngiệp Việt Nam Luận văn Kinh tế 2
D Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê-nin về chủ nghĩa tư bản độc quyền. Vận dụng vấn đề nghiên cứu trên phân Luận văn Kinh tế 4

Các chủ đề có liên quan khác

Top