tracgiahan96

New Member

Download miễn phí Tái tưới máu toàn bộ trong bệnh nhiều nhánh mạch vành





Kỹ thuật mổ bắc cầu mạch vành có rất nhiều thay đổi kể từ các trường hợp phẫu thuật
bắc cầu đầu tiên trên thế giới cách nay trên 40 năm. Các cải tiến kỹ thuật đều nhằm
đến mục đích cuối cùng và quan trọng nhất là giúp kéo dài càng lâu càng tốt thời gian
sống không có triệu chứng, không có các biến cố về mạch vành và không cần
can thiệp mạch vành lại. Việc sử dụng cầu nối từ động mạch ngực trong trái vào
nhánh xuống trước trái, và sau đó là các cố gắng sử dụng thêm các loại cầu nối động
mạch khác để làmgiảm thiểu số lượng cầu nối bằng tĩnh mạch hiển đã làm cải thiện
rõ rệt tỷ lệ sống còn của bệnh nhân bắc cầu mạch vành



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

TÁI TƯỚI MÁU TOÀN BỘ TRONG BỆNH NHIỀU
NHÁNH MẠCH VÀNH
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiều nghiên cứu đã chứng minh phẫu thuật bắc cầu mạch vành dùng cả
hai động mạch ngực trong cho tỷ lệ sống cao hơn, giảm đau thắt ngực sau mổ rõ rệt
hơn và ít có các biến chứng liên quan đến tim hơn so với phẫu thuật bắc cầu mạch
vành sử dụng một động mạch ngực trong. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính khả thi
về kỹ thuật của phẫu thuật dùng hai động mạch ngực trong làm tất cả các cầu nối
nhằm tái tưới máu toàn bộ cho các bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành, đồng thời
bước đầu đánh giá kết quả sớm gồm tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ của phương
pháp.
Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng tiền cứu gồm 17 bệnh nhân bắc
cầu mạch vành tại Khoa Phẫu Thuật Tim mạch BV Đại học Y Dược TP HCM từ
tháng 4 đến tháng 10/2008.
Kết quả: 67 miệng nối xa, trong đó có 62 miệng nối bằng động mạch ngực trong
được thực hiện trên 17 bệnh nhân (trung bình 3,94 cầu nối động mạch trong đó có
3,62 cầu nối từ hai động mạch ngực trong cho một bệnh nhân). Không có tử vong.
Không trường hợp nào viêm trung thất hay nhiễm trùng vết mổ. Một trường hợp
nhồi máu cơ tim trong mổ.
Kết luận: Phẫu thuật tái tưới máu toàn bộ cho bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch
vành, dùng hai động mạch ngực trong để làm tất cả các cầu nối khả thi về mặt kỹ
thuật và có kết quả sớm tốt. Cần tiếp tục theo dõi lâu dài với số lượng bệnh nhân lớn
để chứng minh ưu điểm dài hạn của phương pháp: cải thiện tỷ lệ sống còn của bệnh
nhân mổ bắc cầu mạch vành.
ABSTRACT:
TOTAL CORONARY REVASCULARIZATION USING EXCLUSIVE BITA T -
GRAFTS
IN PATIENTS WITH MULTI-VESSELS DISEASES: INITIAL RESULTS.
Nguyen Hoang Dinh, Nguyen Anh Dung, Vu Tri Thanh, Pham The Viet, Cao Dang
Khang,
Phan Van Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009:
81 – 89
Background: Many recent sudies have supported the use of bilateral internal thoracic
arteries (BITA) as the exclusive grafts in CABG surgery based on superior graft
patency, reduced cardiac-retaled eventsand enhanced survival when compared with
patients receiving only the left internel thoracic artery. This study aimed at evaluating
the feasibility of total coronary revascularization using exclusive BITA T - grafts in
patients with multi-vessels diseases. We also analyzed short-term results including
post operative mortality and morbidity of the technique.
Methods: This is a prospective clinical trial including 17 patients with multi-vessels
diseases underwent total coronary revascularization using exclusive BITA T – grafts
at the Cardiovascular Surgery Department of Medical University Center at Ho Chi
Minh city from April to October 2008.
Results: 67 distal anastomoses including 62 BITA grafts were performed (the
average numbers of distal anastomoses and BITA anastomoses per patient were 3.94
and 3.62, respectively). No superficial nor deep sternal infection was observed in this
group. No mortality was encountered. One patient developed intraoperative
myocardial infarction.
Conclusions: Total coronary revascularization using exclusive BITA T - grafts in
patients with multi-vessels diseases was feasible and safe with satisfactory short-term
results. Larger studies are required to confirm the potential benefits of the technique,
namely superior graft patency, reduced cardiac-retaled events and enhanced survival
rate.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thời gian gần đây việc dùng cả hai động mạch ngực trong làm cầu nối được nhiều tác
giả triển khai với mong muốn cải thiện kết quả dài hạn của phẫu thuật bắc cầu mạch
vành(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.). Nhiều nghiên cứu đã chứng minh phẫu thuật bắc cầu mạch vành
dùng cả hai động mạch ngực trong cho tỷ lệ sống cao hơn, ít có các biến chứng liên
quan đến tim hơn so với phẫu thuật bắc cầu mạch vành sử dụng một động mạch ngực
trong(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Bên
cạnh đó nhiều nghiên cứu cũng cho rằng kỹ thuật phẫu tích trần hai động mạch ngực
trong làm giảm tỷ lệ viêm xương ức và viêm trung thất sau mổ(Error! Reference source not
found., Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.).
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính khả thi về kỹ thuật của phẫu thuật dùng hai động
mạch ngực trong làm tất cả các cầu nối nhằm tái tưới máu toàn bộ cho các bệnh nhân
hẹp nhiều nhánh mạch vành, đồng thời đánh giá kết quả sớm gồm tỷ lệ tử vong và
biến chứng sau mổ của phương pháp.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, tiền cứu. Các số liệu thu thập bao gồm đặc điểm
lâm sàng, các yếu tố nguy cơ đi kèm, các số liệu liên quan đến phẫu thuật, tỷ lệ tai
biến và tử vong sau mổ được phân tích bằng phần mềm SPSS.
Các biến chứng sau mổ được theo dõi bao gồm: nhồi máu cơ tim (có ít nhất hai trong
số các triệu chứng đau ngực, thay đổi trên điện tim, troponin Ic ≥ 12ng/mL, rối loạn
vận động vùng mới xuất hiện trên siêu âm tim); hội chứng giảm cung lượng tim (cần
hỗ trợ vận mạch trên 48 giờ); các rối loạn nhịp, suy hô hấp (thở máy trên 48 giờ), suy
thận cấp, nhiễm trùng xương ức và viêm trung thất, tai biến mạch máu não (triệu
chứng rối loạn tâm – thần kinh kéo dài trên 48 giờ hay được chẩn đoán bằng CT Scan
hay MRI), chảy máu phải mổ lại.
Bệnh nhân được tái khám định kỳ hàng tháng sau mổ hay khi có diễn biến bất
thường, được ghi nhận triệu chứng cơ năng, siêu âm tim, các thuốc đang sử dụng.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Từ tháng 4/2008 đến tháng 10/2008 các bệnh nhân bệnh nhiều nhánh mạch vành
có chỉ định phẫu thuật bắc cầu mạch vành tại Khoa Phẫu thuật Tim mạch BV Đại
học Y Dược được chọn vào nhóm nghiên cứu nếu thỏa các điều kiện sau:
- Tuổi: thời gian đầu chúng tui chọn các bệnh nhân không quá 65, sau đó chúng tui
đưa vào nghiên cứu cả các trường hợp bệnh nhân trên 65 tuổi.
- Không phải là mổ cấp cứu. Tuy nhiên đau thắt ngực không ổn định, hẹp khít thân
chung cần mổ sớm hay nhồi máu cơ tim mới cách 2 – 3 tuần đã có troponin Ic giảm
dưới 0,2 ng/mL không phải là tiêu chuẩn loại trừ.
- Không có hay chỉ có một trong các yếu tố nguy cơ của viêm xương ức/ nhiễm
trùng trung thất: tiểu đường, béo phì (BSA ≥ ….), COPD.
- Không có tổn thương hẹp đoạn gần của động mạch dưới đòn trái (loại trừ bằng chụp
mạch máu hay siêu âm Doppler).
Tái tưới máu toàn bộ được định nghĩa là tất cả các nhánh mạch vành có đường kính
1,5mm trở lên, hẹp từ 70% trở lên (riêng thân chung hẹp từ 50% trở lên) đều được
ghép ít nhất một miệng nối xa sau chỗ hẹp.
Mô tả kỹ thuật
Hình 1a: cầu nối chữ T bằng hai động mạch ngực trong và phân bố các miệng nối
Hình 1b: cầu nối chữ T bằng hai động mạch ngực trong và phân bố các miệng nối
Chúng tui sử dụng hai động mạch ngực trong cho tất cả các trường hợp. Trong thời
gian đầu cho một số ít trường hợp chúng tui dùng động mạch quay làm một cầu nối,
hầu hết vào động mạch vành phải. Không trường hợp nào cần dùng t...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top