TÀI LIỆU ÔN TẬP VĂN 11 HỌC KỲ II



BÀI 1: VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI (Trích “Vũ Như Tô”) Nguyễn Huy Tưởng

1. Tác giả & tác phẩm



Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) là một nhà văn, nhà viết kịch tài năng. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho khá giả có tinh thần yêu nước ở làng Dục Tú, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). Ông tham gia cách mạng rất sớm, gia nhập tổ chức Văn hoá cứu quốc và sáng tác văn học phục vụ cách mạng. Ông đặc biệt thành công với đề tài lịch sử ở cả hai thể loại tiểu thuyết và kịch.



Tác phẩm chính : Vũ Như Tô (kịch, 1941), Bắc Sơn (kịch, 1946), Những người ở lại (kịch, 1948), Đêm hội Long Trì (tiểu thuyết, 1942), An Tư (tiểu thuyết, 1945), Sống mãi với thủ đô (tiểu thuyết, 1961), Kí sự Cao - Lạng (kí, 1951)...



Vở kịch gồm năm hồi, viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 - 1517.

Nhân vật chính của vở kịch là Vũ Như Tô, là một nhà kiến trúc tài giỏi, một nghệ sĩ có chí lớn, tính tình cương trực, trọng nghĩa khinh tài. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa, sai Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi với đám cung nữ. Vũ đã từ chối dù bị đe doạ kết tội tử hình. Song Đan Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng đã bị ruồng bỏ, đã khuyên Vũ nên nhận lời xây dựng Cửu Tràng Đài vì đây là cơ hội để Vũ đem tài ra phục vụ đất nước, “Ông cứ xây lấy một toà đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi, nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện...”. Vũ đã nhận lời và dồn hết sức xây Cửu Trùng Đài. Nhưng Cửu Trùng Đài đã làm cho dân chúng thêm cực khổ. Họ đã nổi dậy. Vũ Như Tô bị giết, Cửu Trùng Đài bị thiêu trụi.



Đoạn trích thuộc hồi V của vở kịch, cảnh diễn ra trong cung cấm. Việc xây dựng Cửu Trùng Đài đã khiến cho nhân dân vô cùng cực khổ. Trịnh Duy Sản đã lợi dụng tình hình dấy binh nổi loạn. Nhân dân, binh lính và thợ xây dựng Cửu Trùng Đài đã nổi dậy. Chúng bắt giết Vũ Như Tô, Đan Thiềm và huỷ diệt Cửu Trùng Đài.



2/ Phân tích




Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là một vấn đề rất phức tạp. Nghệ thuật và cuộc sống không thể tách rời nhau là điều đương nhiên nhưng chúng quan hệ với nhau như thế nào là điều được nhiều người quan tâm. Cuộc tranh luận giữa hai trường phái “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh” là cố gắng của các nhà nghiên cứu để xác định mối quan hệ này. Các nhà văn Việt Nam sau này cũng vẫn cố gắng không ngừng để lí giải quan niệm của mình. Với kịch Vũ Như Tô, một mặt nào đấy cũng là cố gắng và quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng về quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.



Vũ Như Tô
là một vở bi kịch. Nhân vật chính là một người nghệ sĩ đầy tài năng và tâm huyết với khát vọng sáng tạo nghệ thuật rất lớn và chân chính. Tác phẩm đã đặt ra vấn đề lớn, đó là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần tuý của muôn đời và lợi ích thiết thực của nhân dân. Vũ Như Tô là một tài năng nhưng chính vì không giải quyết được mâu thuẫn giữa nghệ thuật và cuộc sống mà ông đã thất bại.



Đoạn trích tái hiện cuộc nổi dậy của binh lính và dân chúng dưới sự cầm đầu của Lê Duy Sản. Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài theo lời khuyên của Đan Thiềm với mục đích xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật. Đó là mục đích nghệ thuật của người nghệ sĩ. Còn điều mà nhân dân và binh lính trông thấy ngay trước mắt là Vũ Như Tô đang dùng công sức và xương máu của nhân dân để phục vụ mục đích ăn chơi sa đoạ của tên hôn quân Lê Tương Dực.



Chỉ là một trích đoạn nhưng đoạn kịch này cũng có kết cấu như một vở kịch : có thắt nút (mâu thuẫn), xung đột, cao trào và mở nút. Với cả vở kịch, đoạn trích này là phần cao trào, rồi giải quyết mâu thuẫn lớn nhất của cả vở kịch.



Cuộc đối thoại giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô ở lớp I của hồi kịch cho thấy Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ chỉ chú ý đến nghệ thuật. Trông coi việc xây Cửu Trùng Đài mà ông không biết rằng tác phẩm nghệ thuật của ông đã gây ra bao nhiêu lầm than cực khổ cho dân chúng. Mục đích nghệ thuật của ông mâu thuẫn với quyền lợi thiết thực của dân chúng mà ông lại không nhận ra. Ông là người nghệ sĩ quá quan tâm đến nghệ thuật mà quên đi quan hệ của nghệ thuật với đời sống. Vì thế ông không thể hiểu điều Đan Thiềm nói. Vũ Như Tô thà chết với Cửu Trùng Đài chứ không chịu chạy trốn. Đây cũng chính là phần thắt nút của đoạn kịch.

Cuộc nổi loạn của binh lính, thợ thuyền là tất yếu. Với họ, Cửu Trùng Đài đơn giản là nguyên nhân gây nên lầm than cực khổ, là biểu hiện của sự ăn chơi sa đoạ của tên hôn quân. Giữa Vũ Như Tô, người nghệ sĩ có mục đích nghệ thuật tốt đẹp và nhân dân lao động đã không có tiếng nói chung bởi người nghệ sĩ như ông Vũ không hiểu và không giải quyết được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.



Cao trào của hồi kịch được tập trung ở ba lớp kịch cuối cùng, đó là cuộc đối đầu giữa Vũ Như Tô và những người nổi dậy. Đan Thiềm và Như Tô là hai người tri âm, tri kỉ, cùng có một mục đích nghệ thuật tốt đẹp nhưng cuối cùng đều thất bại. Và cả Cửu Trùng Đài, tâm huyết của hai người cũng bị phá huỷ.



Đoạn đối thoại giữa Vũ và Ngô Hạch cùng đám quân sĩ thể hiện cao trào của mâu thuẫn. Giữa họ không có tiếng nói chung. Sự thất bại của Vũ Như Tô đã nói lên một điều rằng, khi nghệ thuật mâu thuẫn với cuộc sống, nghệ thuật khó tồn tại. Đồng thời, thái độ của binh lính đối với Cửu Trùng Đài còn thể hiện những trăn trở của chính Nguyễn Huy Tưởng về nghệ thuật, về văn hoá dân tộc. Không thể trách những người nổi dậy bởi hành động đập phá của họ. Hành động đó là tất yếu. Nhưng nó vẫn gợi sự xót xa, tiếc nuối cho người đọc. Việc đốt Cửu Trùng Đài với đám binh sĩ chỉ là một hành động trả thù bởi với họ Cửu Trùng Đài là nguyên nhân của mọi nỗi khổ cực. Họ không hiểu gì về ý nghĩa lớn lao của công trình kiến trúc này. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài là tất cả.



Đoạn trích có đủ các yếu tố của một vở kịch : biến cố, xung đột và giải quyết xung đột. Không khí, nhịp điệu của sự việc được diễn tả theo chiều tăng tiến mức độ dồn dập đã thể hiện được tính chất gay gắt của mâu thuẫn và dần đẩy xung đột kịch lên cao trào. Cửu Trùng Đài và Vũ Như Tô là cái nút của mâu thuẫn. Xung đột đã được giải quyết bằng sự ra đi vĩnh viễn của cả hai.



Đan Thiềm và Vũ Như Tô vừa đáng khen vừa đáng trách. Đáng khen bởi họ là những người nghệ sĩ biết tôn trọng tài năng và yêu nghệ thuật. Họ là những người có khát vọng cao quý, đó là xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật lớn. Nhưng họ cũng đáng trách bởi vì khi quan tâm đến nghệ thuật họ đã quên trách nhiệm đối với nhân dân. Nghệ thuật là kết quả của lao động nghệ thuật nhưng nghệ thuật không thể là nguyên nhân của lầm than, không thể được xây dựng bởi máu và nước mắt của người lao động.



Với đoạn trích này, Nguyễn Huy Tưởng đã giải quyết mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật đích thực phải thống nhất với quyền lợi của con người. Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người. Người nghệ sĩ khi làm nghệ thuật phải chú ý đến điều đó.

Nam Cao từng nói : “Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” để khẳng định nghệ thuật phải xuất phát từ cuộc sống và vì cuộc sống. Về một phương diện nào đó, với kịch Vũ Như Tô, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện sự nhất trí với quan niệm của Nam Cao.





BÀI 2: TÌNH YÊU VÀ THÙ HẬN Trích “Rô-mê-ô và Giu-li-ét”) U. Sếch-xpia



1.Tác giả & tác phẩm




Uy-li-am Sếch-xpia (1564 - 1616) là nhà soạn kịch Anh nổi tiếng cuối thời đại Phục hưng ở Tây Âu. Quê ông là thị trấn Xtơ-rét-phớt ôn Ê-vơn, miền tây nam nước Anh. Cha ông là một thương gia. Sếch-xpia sớm phải vất vả kiếm sống. Từ một chân giữ ngựa ở rạp hát đến người nhắc vở rồi diễn viên và cuối cùng trở thành nhà viết kịch nổi tiếng.

Sếch-xpia để lại 37 vở kịch bao gồm cả ba thể loại : kịch lịch sử (Vua Hen-ri VI, Vua Giôn,...) ; hài kịch (Chàng thương gia thành Vơ-ni-dơ, Đêm thứ mười hai,...) ; bi kịch (Rô-mê-ô và Giu-li-ét, Vua Lia, Hăm-let,...). Ông còn viết truyện thơ và làm thơ.



Tóm tắt vở kịch




Rô-mê-ô và Giu-li-ét
là vở bi kịch nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của Sếch-xpia. Ở thành Vê-rô-na nước Ý có hai dòng họ phong kiến vốn có mối thù truyền kiếp với nhau là Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét. Chàng Rô-mê-ô là con trai họ Môn-ta-ghiu yêu Giu-li-ét, con gái họ Ca-piu-lét. Họ là một đôi trai tài gái sắc. Hai người làm lễ thành hôn thầm kín. Nhưng cùng trong ngày hôm đó, do một cuộc cãi lộn, Rô-mê-ô đâm chết Ti-bân, anh họ Giu-li-ét và bị kết tội biệt xứ. Gia đình Giu-li-ét ép nàng phải lấy bá tước Pa-rít. Nàng định tự sát, nhưng được tu sĩ Lâu-rân giúp kế tránh cuộc hôn nhân đó : tu sĩ cho nàng một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết ; sau khi gia đình đặt thi thể nàng vào hầm mộ, tu sĩ sẽ báo cho Rô-mê-ô đến cứu nàng trốn khỏi thành Vê-rô-na. Nhưng người của tu sĩ chưa kịp báo tin thì người nhà Mông-ta-ghiu lại đến trước báo tin nàng Giu-li-ét đã tự sát. Rô-mê-ô tưởng nàng đã chết, nên đã tự sát bên nàng. Giu-li-ét tỉnh dậy, cũng tự sát theo. Và trước cái chết của hai người, hai họ đã quên mối thù truyền kiếp.



Tác phẩm kết thúc bằng cái chết của hai nhân vật chính và sự hoà giải của hai dòng họ. Một kết thúc đầy bi kịch nhưng âm hưởng chung của tác phẩm lại thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả đối với sự chiến thắng của lí tưởng nhân văn chủ nghĩa. Tình yêu say đắm thuỷ chung của hai người trẻ tuổi đã xoá bỏ những tập tục thành kiến và thù địch của hai dòng họ suốt hàng trăm năm.



Đoạn trích thuộc lớp 2, hồi II của vở kịch. Rô-mê-ô và Giu-li-ét gặp nhau và họ đã yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Rô-mê-ô khi biết Giu-li-ét là con gái nhà Ca-piu-lét đã nói : “Nàng là người họ Ca-piu-lét sao ? Ôi oan trái yêu quý, đời sống của ta nằm trong tay người thù”. Còn Giu-li-ét thì bảo nhũ mẫu : “Nếu chàng có vợ rồi thì có lẽ nấm mồ kia sẽ là giường cưới của ta”. Và khi biết Rô-mê-ô là con nhà Môn-ta-ghiu, nàng đã thốt lên :

Một mối thù sinh một mối tình

Vội chi sớm gặp, biết đành muộn sao !

Tình đâu trắc trở gian lao

Hận thù mà hoá khát khao ân tình.



Những lời này của Giu-li-ét cũng chính là linh cảm cho mối tình đầy ngang trái của họ. Đêm về cả hai đều không ngủ được. Rô-mê-ô liều mình trèo vào tường nhà Ca-piu-lét dù biết rằng mình có thể bị giết chết. Và tình cờ chàng đã nghe được những lời tâm sự của Giu-li-ét. Đoạn trích là cuộc gặp gỡ của đôi trẻ sau đêm dạ hội ấy.



2/ Phân tích




Uy-li-am Sếch-xpia là tác gia tiêu biểu của nền văn học châu Âu thời kì Phục hưng. Sống vào giai đoạn quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản, ông đã nhanh nhạy nắm bắt được hơi thở, mạch đập của thời đại và đưa vào tác phẩm của mình. Và sự nghiệp sáng tác của Sếch-xpia là sự phản ánh và phê phán cả hai chế độ đó. Chế độ tư bản với những quan hệ “trả tiền ngay” rất tàn nhẫn của giai cấp tư sản buổi ban đầu đã được khái quát và điển hình hoá ở hình tượng tên lái buôn Do Thái Sai-lốc trong vở Người lái buôn thành Vơ-ni-dơ và ở số phận vua Lia trong vở Vua Lia. Sự tàn bạo, lạc hậu, hủ lậu đầy thành kiến của chế độ phong kiến già nua đã được phơi bày trong một loạt bi kịch của ông như Mác-bét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, Ô-ten-lô… Sếch-xpia luôn lên tiếng ngợi ca con người và đòi quyền sống, quyền tự do đích thực cho họ. Nhân vật của Sếch-xpia là những con người mới của thời đại mới, những con người luôn sống bằng chính trái tim của mình, dám cất lên tiếng nói thể hiện khát vọng của mình, vượt lên mọi thù hận, mọi ràng buộc xã hội. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là thay mặt tiêu biểu cho những con người ấy.



Trong suốt thời trung cổ, cả châu Âu chìm trong đêm tối của chế độ phong kiến và nhà thờ. Mọi quyền tự do của con người dường như đều bị tước bỏ. Tư tưởng nhân văn cao đẹp của nền văn hoá Hi Lạp – La Mã cổ đại đều bị chìm trong đống đổ nát của những thành tựu văn hoá từng phát triển rực rỡ. Thời cổ đại người ta ngợi ca con người bao nhiêu thì thời trung cổ con người bị vùi dập bấy nhiêu. Phong trào văn nghệ Phục hưng ra đời đã đánh thức khát vọng của con người, đề cao con người và khẳng định con người là cao quý nhất. Hoàng tử Hăm-lét, nhân vật chính của vở kịch Hăm-lét, đứa con tinh thần yêu quý của Sếch-xpia, đã có một phát ngôn bất tử về con người : “Kì diệu thay là con người, về vẻ đẹp nó sánh ngang với thần thánh, trí tuệ sánh ngang với thượng đế. Con người thật là kì diệu, là trung tâm của vũ trụ, là kiểu mẫu của muôn loài. Con người phải được thoả mãn mọi nhu cầu vốn có như ăn, uống, ngủ, nghỉ, các sinh hoạt trần thế, sự hiểu biết và sự phát triển về mặt trí tuệ”. Phát ngôn này là sự kế tục tinh thần của Prô-ta-gô-rốt, nhà triết học cổ đại Hi Lạp : “Con người là thước đo của vạn vật”, là tư tưởng chung của chủ nghĩa nhân văn trong văn học Hi Lạp cổ đại và cũng chính là tư tưởng chủ đạo của văn học thời Phục hưng. Là tác giả tiêu biểu của văn học Phục hưng Anh, Sếch-xpia đã thể hiện sâu sắc tư tưởng này trong tác phẩm của mình. Sự vĩ đại của Sếch-xpia là sản phẩm của sự kết hợp giữa tài năng, sự hiếu học, sự phát triển rực rỡ của thời đại Phục hưng và hiện thực xã hội Anh cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII. Với sự thắng thế của tinh thần nhân văn chủ nghĩa, văn học Phục hưng giai đoạn đầu luôn vui tươi và tràn đầy tinh thần lạc quan. Nhưng đến giai đoạn sau, tinh thần lạc quan ấy giảm dần bởi sự hiện hữu lạnh lùng của những quan hệ tư sản mới. Những mâu thuẫn giữa lí tưởng cao đẹp và hiện thực xã hội đầy phức tạp của buổi giao thời giữa phong kiến và tư bản đã để lại dấu ấn rất đậm nét trong sáng tác của các nhà văn Phục hưng. Và Sếch-xpia là thay mặt tiêu biểu nhất.



Sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Sếch-xpia cũng có thể chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, trước năm 1600, sáng tác của nhà văn mang âm hưởng lạc quan, đây là thời kì của những vở hài kịch. Giai đoạn sau, từ năm 1600 trở đi, chủ yếu ông sáng tác bi kịch. Vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét viết khoảng 1594 đến 1595, có thể coi là gạch nối tư tưởng hai giai đoạn sáng tác của ông. Tuy là một bi kịch tình yêu, kết thúc là cái chết của hai nhân vật chính nhưng vở bi kịch này không để lại âm hưởng thê thảm như những vở bi kịch ở giai đoạn sau.

Rô-mê-ô và Giu-li-ét
là một vở kịch thơ xen lẫn văn xuôi vì vậy dù đã dịch sang văn xuôi nhưng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật vẫn là những câu văn vần rất uyển chuyển, nhịp nhàng tạo cho đoạn trích một sức hấp dẫn đặc biệt. Dù là độc thoại hay đối thoại, lời thoại của các nhân vật đều rất giàu chất thơ, có vần điệu.



Sau cuộc gặp gỡ ở buổi dạ hội, cả Rô-mê-ô và Giu-li-ét đều đã mang trong mình mối sầu tương tư. Và như người ta vẫn nói, khi hai ánh mắt đã gặp nhau, trái tim đã đồng điệu là lúc hai tâm hồn đã thuộc về nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là hai người như thế. Vì vậy, họ mới có chung một cảm xúc và không hò hẹn, họ đã cùng nhau than thở dưới trăng trong vườn nhà Ca-piu-lét. Những lời độc thoại và đối thoại của đôi trai gái trong Tình yêu và thù hận đã thể hiện họ là những con người biết yêu thương bằng chính trái tim mình.



Đoạn trích gồm hai phần. Phần 1 gồm sáu lời thoại đầu. Hai người tự nói bộc lộ cảm xúc của mình. Chính tình huống kịch này đã làm tăng tính chất chân thành, say đắm của mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Phần 2 là cuộc đối thoại trực tiếp giữa hai người. Đoạn trích tập trung thể hiện nội dung chính là : mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ không cản trở được hai trái tim yêu mà chỉ làm họ say đắm hơn mà thôi. Họ sẵn sàng vượt lên tất cả để được yêu nhau.

Rô-mê-ô và Giu-li-ét thay mặt cho những con người khao khát tự do và hạnh phúc. Họ sẵn sàng vượt lên hàng rào ấy để giành lấy tự do, hạnh phúc cho riêng mình. Họ sẵn sàng từ bỏ tên họ của mình để được đến bên nhau. Hành động này không phải là sự vô tình của kẻ dám từ chối gia đình mình, mà đó là sự từ chối những thành kiến vô lí. Giu-li-ét nói : “chàng hãy thề là chàng yêu em đi, và em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa”. Và Rô-mê-ô : “Chỉ cần em gọi tui là người yêu, tui sẽ thay tên đổi họ ; từ nay, tui sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”. Những lời tha thiết ấy của hai người đã chứng tỏ tình yêu say đắm của họ. Đó là một mối tình trong sáng và mãnh liệt. Dưới ánh mắt của chàng Rô-mê-ô đang yêu, Giu-li-ét đẹp và dịu hiền hơn tất cả. Với chàng, “nàng Giu-li-ét là mặt trời”. Rô-mê-ô đã dùng một loạt hình ảnh so sánh tuyệt vời nhất để miêu tả vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét : “chẳng qua hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ mắt nàng lấp lánh, chờ đến lúc sao về”. Lời thoại dài nhất của Rô-mê-ô trong đoạn trích là lời ca ngợi vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét còn lời thoại dài nhất của Giu-li-ét là đoạn bộc lộ tình yêu say đắm của nàng với Rô-mê-ô. Chính lời thoại này của Giu-li-ét thể hiện tư tưởng cốt lõi của đoạn trích : "Mông-ta-ghiu là cái gì nhỉ ? [...] thì mười phân chàng vẫn cứ vẹn mười.”



Rô-mê-ô vượt tường rào vào vườn nhà Giu-li-ét chỉ vì nhớ nàng không thể ngủ được. Tình yêu đã làm chàng quên đi rằng vì mối thù truyền kiếp chàng có thể bị giết chết nếu bị người nhà Ca-piu-lét bắt. Khát vọng yêu là khát vọng của muôn đời và của mọi dân tộc. Trong văn học Việt Nam, nàng Kiều dám vượt qua hàng rào lễ giáo phong kiến “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến vườn Lãm Thuý thề nguyền cùng chàng Kim trong một đêm trăng :

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,



Đinh ninh hai miệng một lời song song.



thì bên khung cửa sổ tràn đầy ánh trăng trong vườn nhà Ca-piu-lét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét vượt qua mối thù địch của hai dòng họ cũng thề nguyền cùng nhau với những lời tha thiết. Cuộc thề hẹn dưới trăng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã đánh thức khát vọng sống của cả thời đại. Tình yêu của họ đã chứng tỏ những thế lực và xiềng xích của những hủ tục, thành kiến của mối quan hệ phong kiến đã dần mất tác dụng. Nó đang bị phá bỏ hay tự tan rã. Thời đại trung cổ đã qua đi, con người đã được giải phóng khỏi những quy tắc hà khắc vô lí. Lời của Rô-mê-ô đã trực tiếp thể hiện điều này, “tui vượt được tường này là nhờ đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu ; mấy bức tường đá ngăn sao được tình yêu ; mà cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm…”. Cuộc đối thoại giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét trong đoạn trích đã khẳng định rằng tình yêu có thể vượt lên tất cả. Và chỉ tình yêu có quyền lên tiếng trong trái tim hai người đang yêu. Tuy đoạn trích không có những xung đột đầy kịch tính như các hồi kịch khác nhưng tính kịch vẫn được thể hiện rất rõ qua ngôn ngữ và hành động kịch, đó là hoàn cảnh đầy bất trắc, là cảm xúc yêu thương mãnh liệt, là những băn khoăn trước sự trái ngang của tình yêu.

Với một giọng văn thấm đẫm chất thơ và cảm hứng lãng mạn, Sếch-xpia đã tạo nên một đêm trăng thề hẹn thật trữ tình. Tình yêu trong sáng thuần khiết của đôi trẻ đặt bên cạnh mối thù hận truyền kiếp làm cho mối thù ấy trở nên vô nghĩa và mang đầy tính chất phản nhân văn. Ngôn ngữ kịch của Sếch-xpia vốn rất giàu nhạc tính và hình ảnh với những lối ví von so sánh rất gợi cảm, nhất là những câu Rô-mê-ô miêu tả vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét. Mặc dù đã dịch sang văn xuôi nhưng đó vẫn là những câu văn uyển chuyển, gợi cảm và thấm đẫm chất thơ. Ngôn ngữ đối thoại giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét tràn đầy tình yêu thương, nó thể hiện sự đồng điệu tâm hồn của hai người trẻ tuổi. Chỉ một lần gặp nhau với thời gian ngắn ngủi nhưng dường như họ đã hiểu hết những điều người kia muốn nói.



Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét tuy gặp nhiều trở ngại nhưng họ đều đã dũng cảm vượt qua, và đến cái chết cũng không chia lìa được họ. Cái chết của hai người đã thức tỉnh và hoá giải được mối thù của hai dòng họ. Tình yêu của họ đã làm được điều mà chính quyền lực của Vương chủ thành Vê-rô-na cũng không làm được. Mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã trở thành một huyền thoại tình yêu thật đẹp, là tình yêu lí tưởng cho toàn nhân loại. Cho đến nay con người vẫn khao khát một tình yêu như thế.





BÀI 3: LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG (Xuất dương lưu biệt)

Phan Bội Châu

Phan Bội Châu là người khơi dòng chảy cho loại văn chương trữ tình chính trị. Thơ văn của ông có sức chiến đấu mạnh mẽ, "đọc thơ văn Phan Bội Châu, lí trí chưa kịp nhận thức và tán thành thì ngó lại, trái tim đã bị nó hoàn toàn chinh phục rồi". Giá trị của thơ văn Phan Bội Châu chính là ở cảm xúc cách mạng chân thành, sôi nổi. Ông nói thẳng và cổ vũ trực tiếp cho cách mạng. Bài thơ Xuất dương lưu biệt thể hiện những nét đặc sắc của phong cách thơ tuyên truyền vận động cách mạng của Phan Bội Châu.



Sinh ra và lớn lên vào thời kì nhạy cảm nhất của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu chứng kiến cảnh dân tộc lần lượt rơi vào vòng đô hộ của thực dân Pháp. Ông cũng được chứng kiến sự thất bại của phong trào Cần vương nhưng cũng lại được sống trong không khí đổi mới do ảnh hưởng của Tân thư đang truyền vào Việt Nam một cách mạnh mẽ. Năm 1905, sau khi Duy tân hội được thành lập, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ xuất dương sang Nhật để đặt cơ sở đào tạo cốt cán cho phong trào cách mạng trong nước. Xuất dương lưu biệt được sáng tác trong buổi chia tay lên đường.



1.Tác giả & tác phẩm



Phan Bội Châu (1867 -1940) là nhà yêu nước và cách mạng của dân tộc Việt Nam -người từng được đánh giá là "bậc anh hùng, vị thiên sứ được hai mươi triệu đồng bào trong vòng nô lệ tôn sùng" (Nguyễn ái Quốc,
Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu). Ông là thay mặt đầu tiên tiêu biểu nhất cho đội ngũ các nhà cách mạng biết dùng thơ văn như một thứ vũ khí chiến đấu hiệu quả nhất. Cuộc đời của Phan Bội Châu là một minh chứng cho lí tưởng "chí nam nhi" của các bậc quân tử phương Đông. Phan Bội Châu là người khơi dòng chảy cho loại văn chương trữ tình  chính trị. Thơ ông thể hiện một bầu nhiệt huyết luôn sục sôi của một người mà lí tưởng duy nhất là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Suốt những năm trai trẻ đến những ngày làm "ông già Bến Ngự", Phan Bội Châu luôn nung nấu trong lòng khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng một đất nước dân chủ tiến bộ.



Lưu biệt khi xuất dương
thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của lớp nhà nho tiên tiến đầu thế kỉ XX : ý tưởng mạnh mẽ, táo bạo, nhiệt huyết và khát vọng giải phóng dân tộc luôn sôi trào. Bằng một giọng thơ sôi nổi, đầy hào khí, tác giả đã thể hiện được tinh thần chung của thời đại, đã thổi vào không khí cách mạng đầu thế kỉ XX một luồng sinh khí mới. Điều này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam ở thời điểm cam go nhất.



2.Phân tích




Lưu biệt khi xuất dương
được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Hình thức cổ điển nhưng tứ thơ, khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm người.





Bài thơ là sự nối tiếp xuất sắc cảm hứng về chí làm trai của văn học truyền thống từ thời Phạm Ngũ Lão đến Nguyễn Công Trứ :

Sinh vi nam tử yếu hi kì,

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.

(Làm trai phải lạ ở trên đời,

Há để càn khôn tự chuyển dời.)



Hai câu thơ đã thể hiện một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải tích cực tham gia vào sự vận động của thế sự. Mở rộng ra nghĩa là con người phải chủ động trước hoàn cảnh. "Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh niên nói chung, chứ thực ra, Phan Bội Châu không phải là người có tư tưởng bảo thủ "trọng nam khinh nữ". Trong Trùng Quang tâm sử, ông đã thể hiện tư tưởng tiến bộ của mình qua việc xây dựng một số hình tượng người phụ nữ anh hùng, có chí khí như cô Chí (Tỏ mặt anh thư). Mở đầu bằng việc khẳng định lí tưởng truyền thống, tác giả đã tạo nên tâm thế để tiếp tục khẳng định :



Ư bách niên trung tu hữu ngã,

Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

Sau này muôn thuở, há không ai ?)



Một lời khẳng định dứt khoát, đầy khí phách về sức mạnh của con người trước càn khôn. ý thức về cái tui đã được tác giả tận dụng triệt để bằng cách tạo nên thế đứng đặc biệt : sự ngang hàng giữa "tớ" và “khoảng trăm năm". Đây không phải là sự đề cao cái tui một cách bi quan hay cực đoan như ở một số nhà thơ mới sau này mà là sự khẳng định trách nhiệm của mỗi người, nhất là thanh niên, đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ cũng là lời giục giã, đánh thức tinh thần đấu tranh của con người. Là lãnh tụ cách mạng đầy tâm huyết, Phan Bội Châu là người luôn có ý thức kêu gọi mọi người cùng góp sức tranh đấu. Để đánh thức tầng lớp thanh niên những năm đầu thế kỉ XX đang bị ru ngủ bởi những trò tiêu khiển được du nhập từ phương Tây, ông đã viết Bài ca chúc tết thanh niên (1927). Chính từ ảnh hưởng của bài thơ này mà đã có rất nhiều thanh niên ra đi tìm đường cứu nước.



Sau khi khẳng định chí nam nhi, nhà thơ lại nói đến trách nhiệm đối với dân tộc của mỗi người. Tấm lòng và nhân cách cao đẹp của một nhà nho, một con người chân chính đã thể hiện ở đây :



Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,

Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si !

(Non sông đã chết, sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)



Hai câu luận vẫn tiếp tục được viết dưới hình thức đối ngẫu quen thuộc của thơ cổ điển, nó vừa khẳng định khí tiết vừa là quyết tâm của người chiến sĩ. Vào thời buổi đó của đất nước, ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng đúng đắn. Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải ngồi đó để học thứ văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, thân nô lệ làm sao mà thực hiện được đạo thánh hiền. Câu thơ còn thể hiện nỗi xót xa của nhà thơ. Đất nước tao loạn, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng. Trên thực tế, khi thực dân Pháp vào xâm lược đất nước ta, văn hoá phương Tây vốn rất xa lạ với người phương Đông đã ồ ạt tràn vào Việt Nam, mang theo nhiều điều mới mẻ nhưng cũng không ít rác rưởi. Nó đã gây nên sự xáo trộn ghê gớm trong nền đạo đức, luân lí xã hội. Và trở thành nỗi đau đời của các nhà nho vốn coi trọng "tam cương ngũ thường". Non sông bị chà đạp, dân tộc mất tự do, nền luân lí, đạo đức xã hội bị đảo lộn đã khiến những người có trách nhiệm với dân tộc như Phan Bội Châu đau lòng. Những từ như tử (chết), nhuế (nhơ nhuốc), si (ngu) đã thể hiện thái độ khinh thường của tác giả đối với những kẻ tự ru ngủ mình bằng cách ngồi đọc sách thánh hiền trong lúc dân tộc đang lầm than, đồng thời khẳng định khí tiết hiên ngang, bất khuất của một nhân cách cao đẹp.



Đến hai câu kết thì những nét bút kì vĩ cuối cùng đã hoàn thiện hành động kiệt xuất của một cuộc đời kiệt xuất:



Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)



Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh. Câu thơ cuối cùng khẳng định bầu nhiệt huyết đang sục sôi của người ra đi. Hướng về phía đông (cụ thể là nước Nhật), người ra đi với một quyết tâm rất cao. Bản dịch chưa dịch hết được tinh thần của nguyên tác ở ba chữ nhất tề phi. Cái mạnh mẽ và hùng dũng, đầy nhiệt huyết và cũng tràn đầy hi vọng thể hiện ở câu thơ cuối cùng này. Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.



Vẫn tiếp tục thể hiện chí làm trai của văn học truyền thống nhưng Phan Bội Châu đã mang đến cho chí khí ấy một sắc màu, một khí thế mới, hiện đại hơn. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa động viên khích lệ thế hệ thanh niên lúc đó mà còn thể hiện một lẽ sống đẹp, là bài học làm người cho thanh niên  tầng lớp hùng hậu và mạnh mẽ nhất  mọi thời đại. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng.

Lời tạm biệt đầy nhiệt huyết, tâm thế ra đi đầy hào hứng và hiên ngang, bài thơ là khúc tráng ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Và là tấm gương sáng ngời muôn thủa để người đời sau soi mình. Đó là những giá trị bất hủ của Xuất dương lưu biệt.





Bài thơ là lời mời gọi lên đường, gửi gắm một khát vọng hoài bão mãnh liệt, khẳng định tình yêu đất nước tha thiết và thôi thúc tin h thần chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc của tác giả Giọng điệu bài thơ tâm huyết sâu lắng mà sôi sục, hào hùng, cùng với bút pháp khoa trương thể hiện niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng những tư tưởng cách mạng của tác giả. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, lớn lao kết hợp với những từ láy gây ấn tượng mạnh đã làm nổi bật được chí vá trời, lấp biển của nhà thơ Phan Bội Châu

ĐỀ VĂN THAM KHẢO:


Dàn bài chi tiết : Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt



BÀI LÀM I/ Đặt vấn đề:



Bài thơ Xuất dương lưu biệt được sáng tác năm 1905, khi Phan Bội Châu từ biệt các bạn đồng chí lên đường tìm đường cứu nước.Tác phẩm là tiếng nói hăm hở của một trang nam nhi quyết tâm hoàn thành sự nghiệp phục quốc.



Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo truyền thống "thi dĩ ngôn chí" của thi ca phương Đông, đó cũng là dấu vết rõ nhất của con người từng theo đuổi sự nghiệp công danh, thập niên đăng hoả học chữ Thánh hiền của Phan Bội Châu. Giọng điệu, khí phách cho đến hình tượng thơ còn mang đậm dấu ấn của thi pháp trung đại nhưng về mặt tư tưởng đã đánh dấu một sự vượt thoát ra khỏi khuôn khổ suy nghĩ của một trí thức Hán học, đoạn tuyệt với tư tưởng Nho giáo về căn bản.



II/ Giải quyết vấn đề




1. Tiền giải:



Dịch thơ: Làm trai phải lạ ở trên đời - Há để càn khôn tự chuyển dời - Trong khoảng trăm năm cần có tớ - Sau này muôn thuở há không ai (Tôn Quang Phiệt dịch).



Khi viết nên những dòng thơ này, Phan Bội Châu đã bước sang tuổi 38 - lứa tuổi đã qua bao thăng trầm, chuẩn bị chớm bước vào tuổi "tứ thập nhi bất hoặc" - tự tin ở chính mình. Làm trai "tam thập nhi lập", hẳn một người đã từng đậu Giải nguyên năm Canh Tý (1900) như Phan Bội Châu không phải vướng bận băn khoăn về ý nghĩa làm trai như Giải nguyên Nguyễn Công Trứ thuở xưa, mặc dù cách nói cũng cùng một kiểu: "Thông minh nhất nam tử - Yếu vi thiên hạ kỳ" (Chí nam nhi). Ông Giải San lúc ấy thừa điều kiện để đi theo con đường tiền nhân Uy Viễn tướng công, nhưng cuối cùng con đường của Phan Bội Châu lại theo một ngã rẽ khác hẳn. Chữ "kỳ" của Nguyễn Công Trứ bó hẹp trong "bút trận" - thi cử đỗ đạt làm quan, phụng sự vô điều kiện cho triều đình phong kiến. Phan Bội Châu ít nhiều chịu ảnh hưởng của quan niệm làm trai thời phong kiến nhưng trong cách nói vẫn khẳng định một cách đầy tự hào về ý thức cá nhân mạnh mẽ của mình.



Một nguời đã từng ý thức với câu thơ tâm đắc "Lập thân tối hạ thị văn chương" (Viên Mai) hẳn không chấp nhận bó mình theo quan niệm phong kiến! Bởi vậy, trong phần tiền giải này, khi nhấn mạnh vào vai trò nam tử, Phan Sào Nam chẳng qua chỉ mượn một quan niệm có sẵn nhằm khẳng định cho cái bản ngã đội trời đạp đất hào hùng của chính mình thôi, không hề có một dấu ấn của con người bổn phận theo lý tưởng làm trai phong kiến.



2. Phần hậu giải:




Dịch thơ: Non sông đã chết, sống thêm nhục - Hiền thánh còn đâu học cũng hoài - Muốn vượt biển Đông theo cánh gió - Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.



Điều cốt tủy trong suy nghĩ, tình cảm của nhà thơ gửi cả vào phần hậu giải này, là bức thông điệp mà Phan Bội Châu gửi gắm lại bạn bè trước giờ lưu biệt. Đúng ra, với đề tài "lưu biệt", trong thơ xưa vốn dĩ hay nói về cảm xúc bịn rịn lưu luyến hay nỗi hận sầu của người trai "chí chưa thành, danh chưa đạt". Vậy mà Phan Bội Châu đã dành hai câu luận để nói về thời thế một cách sâu sắc: ông đạt sự sống chết, vinh - nhục của một đời trai trong mối liên hệ với vận nước, bằng tất cả nỗi đớn đau của người dân mất nước. Câu thơ thật thấm thía! Nguyên văn câu thơ chữ Hán nói về hiền thánh không hề có một chút e dè khi ông phê phán gay gắt cả một nền học cũ đã lỗi thời bằng thái độ đoạn tuyệt dứt khoát. Nước mất - dân ngu, đó chính là lời kết tội của Phan Bội Châu với cả chế độ phong kiến và giáo lý Khổng - Mạnh đã mục ruỗng. Chính sự bảo thủ ấy đã tiếp tay cho kẻ thù đặt ách thống trị lên đất nước. Khác với một Nguyễn Công Trứ bi quan yếm thế khi nếm trải "Vào trường danh lợi vinh liền nhục" để rồi ao ước "làm cây thông đứng giữa trời mà reo"; khác với một Tú Xương từng nguyền rủa chế độ thi cử và kẻ sĩ cùng thời "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi" mà vẫn lận đận lều chõng mong được chen chân vào rồi cay cú "Tám khoa không khỏi phạm trường qui"; Phan Bội Châu đã xác định con đường khác hẳn. Hai câu kết hào hùng hiện rõ tư thế bậc đại trượng phu dám phá bung cả khuôn khổ lề thói cũ, đem đến một quan niệm làm trai mới mẻ:

Nguyện trục trường phong đông hải khứ

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi



Con người nhà thơ hiện ra giữa không gian vũ trụ mới hào hùng, phóng khoáng làm sao! Cái hào sảng của trường phong - trận gió dài, cơn gió mạnh, cái mênh mông của đông hải - gắn với chí lớn con người muốn tát cạn biển đông đã dồn nén vào một chữ "khứ" - gắn với hành trình ra đi ngùn ngụt hùng tâm tráng chí. Vang vọng trong câu thơ hào khí của bậc nữ lưu Triệu Trinh Nương thuở nào: "tui muốn cưỡi cơn gió mạnh, chém cá kình ở biển Đông, chứ không cúi đầu làm thê thiếp kẻ khác". Tâm nguyện cứu nước dù gần hai ngàn năm trước hay thời Phan Bội Châu cũng giống nhau ở ý chí không chịu cúi đầu làm nô lệ một cách nhục nhã. Phan Sào Nam đã bộc lộ ý chí cứu nước qua hình tượng thật đẹp kết lại bài thơ: Ngàn con sóng bạc nhất tề cùng bay lên, cả đất trời như đã hoà theo quyết tâm cứu nước của người anh hùng. Con đường của Phan Bội Châu là con đường hành động, thái độ của Phan Bội Châu là thái độ không cam chịu chờ thời. Không một chút do dự băn khoăn, bài thơ là dự báo về những việc kinh thiên động địa trong tương lai của người anh hùng khiến cho thực dân Pháp và bọn bán nước phải run sợ kinh hoàng.



III/ Kết thúc vấn đề:




Khép lại Xuất dương lưu biệt, người đọc nhận ra một khí phách, một nhân cách của một nhân vật lỗi lạc đầu thế kỷ XX. Bài thơ thổi một luồng sinh khí vào văn chương thời đại, mở ra những trang đầy hào khí của văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, tiếp nối tinh thần bất khuất của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập của thế kỷ trước, có giá trị động viên bao thế hệ yêu nước nối tiếp người chiến sĩ Phan Bội Châu.
 
BÀI 4: HẦU TRỜI Tản Đà 1. Tác giả & Tác phẩm



Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông sinh ra bên núi Tản sông Đà, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay là Ba Vì, Hà Tây) nên lấy bút danh là Tản Đà. Tản Đà sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống khoa bảng và văn học nghệ thuật. Là con trai của quan án sát tỉnh Ninh Bình Nguyễn Danh Kế và một đào nương tên là Nhữ Thị Nghiêm, vì vậy Tản Đà không chỉ say mê ca trù mà còn rất am hiểu về nhạc dân gian. Ông thành thạo xẩm, chèo và cải lương đồng thời thông tỏ về từ khúc (nhạc cung đình Trung Quốc). Tản Đà là thay mặt tiêu biểu của kiểu nhà nho tài tử buổi giao thời, là người đầu tiên "mang văn chương ra bán phố phường". Sáng tác của Tản Đà thể hiện một cá tính nghệ sĩ tài hoa, tài tử.



Tản Đà viết cả văn và làm thơ nhưng ông nổi tiếng với tư cách nhà thơ hơn. Thơ Tản Đà mang màu sắc cổ điển về hình thức và mới mẻ về nội dung, ông được gọi là cầu nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. Là thi sĩ tài hoa và đa tình, ông viết nhiều về tình yêu. Đồng thời thơ Tản Đà còn thể hiện tính dân tộc rõ nét từ hình thức đến nội dung. Trong thơ ông, lòng yêu nước, yêu quê hương được biểu hiện rất phong phú và đa dạng, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp.



Tác phẩm chính : Về thơ có Khối tình con I, II, III, Còn chơi, Thơ Tản Đà... Về văn xuôi có Giấc mộng lớn, Giấc mộng con I, II, Tản Đà văn tập...



Hầu trời
được xếp trong tập Còn chơi (1921) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tản Đà. Bài thơ được viết dưới dạng tự sự, kể một tình huống tưởng tượng cảnh nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ cho trời nghe. Qua đó thể hiện ý thức cá nhân và thái độ của nhà thơ về nghề văn, về cuộc đời.



2/ Phân tích




Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là thay mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo lôgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục : nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.



Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái tui cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh :



Đêm qua chẳng biết có hay không,

...

Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.



Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.



Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.

Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo : gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên :



Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

Văn dài, hơi tốt ran cung mây !...



Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.



Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”(đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân :



Trời lại phê cho : “Văn thật tuyệt

Văn trần được thế chắc có ít !...

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết !”



Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái tui của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình :



- “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”



Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại :



Trời rằng : “Không phải là Trời đày,

Trời định sai con một việc này

Là việc “thiên lương” của nhân loại,

Cho con xuống thuật cùng đời hay.”



Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.



Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái tui cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.



Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ - câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái tui cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.



Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái tui cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một dáng thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.





BÀI 5: VỘI VÀNG Xuân Diệu "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết"([1]). Đó là nhận xét của hai nhà nghiên cứu Hoài Thanh và Hoài Chân về những cảm xúc về cuộc đời luôn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, thơ ông luôn thể hiện một cách chân thực, nồng nàn và hiện đại nhất những trạng thái cảm xúc của con người trước cuộc sống. Vội vàng là tiếng nói sôi nổi, hăm hở của một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt và là tuyên ngôn cho một quan niệm sống, triết lí sống được thể hiện bằng những hình tượng thơ thấm đẫm cảm xúc. Đây là bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tui thơ mới nói chung mà lại in dấu khá đậm hồn thơ Xuân Diệu, vừa rất tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc đáo của nghệ thuật thơ ông.



Vội vàng
là một bài thơ được xem là thành công và tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện khả năng cảm nhận tinh tế vẻ đẹp cuộc sống, đồng thời thể hiện một quan niệm sống, một triết lí nhân sinh tích cực. Trong không gian văn hoá và điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam những năm ba mươi của thế kỉ XX mà một người thanh niên đang ở tuổi đôi mươi có thể có những vần thơ rạo rực và triết lí sâu sắc như Vội vàng là một minh chứng thuyết phục cho tài năng được đánh giá là “một trong ba đỉnh cao của thơ mới”. Bài thơ đã mang đến cho bản nhạc đượm buồn và đậm chất đau thương, tuyệt vọng của thơ mới một khúc ca tràn đầy hi vọng.



1. Tác giả & tác phẩm



Xuân Diệu (1916 1985) tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu. Cha ông là thầy đồ xứ Nghệ (quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh), mẹ ông quê Bình Định. Xuân Diệu được thừa hưởng sự uyên thâm, cần cù của nhà nho ở người cha ; là trí thức Tây học, ông được hấp thụ những tinh hoa văn hoá phương Tây. Vì thế, thơ ca Xuân Diệu là sự kết hợp hài hoà hai yếu tố Đông Tây, trong đó yếu tố Tây học được tiếp thu trong nhà trường chính thức có ảnh hưởng đậm hơn. Sau một thời gian làm công chức ở Mĩ Tho, ông thôi việc ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn.

Xuân Diệu bí mật tham gia Hội Văn hoá cứu quốc năm 1943. Năm 1946 được bầu là Uỷ viên quốc hội khoá một của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Suốt từ đó cho đến khi mất, ông từng là uỷ viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam, uỷ viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam nhiều khoá. Đóng góp lớn nhất của Xuân Diệu cho đất nước vẫn là sự nghiệp thơ văn. Ông đã từng đi nói chuyện thơ (hàng trăm buổi) cho nhiều đối tượng nghe. Năm 1983, ông được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà Dân chủ Đức. Ông được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1, năm 1996).



Vội vàng là bài thơ tiêu biểu nhất cho nét phong cách nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Tác phẩm được rút trong tập Thơ thơ, tập thơ xuất sắc và tiêu biểu nhất cho thơ Xuân Diệu trước Cách mạng.



Bài thơ thể hiện một tình yêu cuộc sống tha thiết, qua đó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. So với thơ ca truyền thống, bài thơ mới mẻ về cả tư tưởng và thi pháp.



Tình yêu cuộc sống tha thiết mãnh liệt đã dẫn đến quan niệm sống hết mình, sống bằng mọi giác quan. Cái cuống quýt vội vàng trong cách sống mà Xuân Diệu thể hiện trong bài thơ không phải là lối sống vội vàng, hưởng thụ cá nhân, mà là sống hết mình. Có thể hiểu nội dung này theo bố cục hai phần của bài thơ :



 Phần 1 (30 câu thơ đầu) : tập trung luận giải các lí do vì sao phải vội vàng  ở đó chứa đựng một quan niệm triết học về vũ trụ, nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống. Cuộc đời tươi đẹp và vô hạn, thời gian của con người là hữu hạn.



 Phần 2 (đoạn thơ còn lại) : giải pháp sống. Vì cuộc sống vô cùng tươi đẹp như vậy nên phải sống thật nhiệt thành, phải hết mình, hoà mình cùng thiên nhiên, cùng cuộc đời thì mới cảm nhận hết ý nghĩa của sự sống.



Quan niệm mới mẻ của nhà thơ thể hiện ở hệ thống hình ảnh thơ mới lạ, nhiều sắc màu và tràn đầy cảm xúc. Bài thơ là tiếng ca thúc giục mọi người, nhất là những người trẻ tuổi hãy hết mình với cuộc đời, sống thật nhiều và thật có ý nghĩa.



2. Phân tích



a. Những khát khao tận hưởng cuộc sống trần thế



Với giọng điệu thôi thúc, cảm xúc gọi nhau tuôn trào từ câu đầu đến câu cuối, Vội vàng lôi cuốn người đọc ngay từ những dòng đầu tiên. Bài thơ mở đầu rất đột ngột bằng một khát vọng lớn :



tui muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất ;

tui muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.



Khát vọng được nhấn mạnh bởi sự lặp lại cấu trúc “tui muốn...” trong một đoạn bốn câu thơ năm chữ. Nhịp thơ và cấu trúc ấy đã gợi vẻ cuống quýt, vội vàng. Nội dung của ý muốn ấy lại càng độc đáo, đó là “tắt nắng” và “buộc gió”. Đó là khát vọng níu giữ những vẻ đẹp của cuộc đời. “Màu” và “hương” là những tinh tuý của đất trời. Nhà thơ muốn níu giữ lại vẻ đẹp đó. Nhưng “tắt nắng”, “buộc gió” là điều không thể thực hiện. Ngay những dòng thơ đầu tiên đã phảng phất sự bất lực và nuối tiếc của nhân vật trữ tình. Và cũng ngay ở đây, cái tui cá nhân của thi sĩ đã xuất hiện với tư thế chủ động trước cuộc đời.



Những câu thơ tiếp theo lí giải cụ thể nguyên nhân dẫn đến khát vọng có vẻ “ngông cuồng” ở những câu đầu. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp được miêu tả sinh động và đáng yêu :



Của ong bướm này đây tuần tháng mật,

Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

Này đây lá của cành tơ phơ phất ;

Của yến anh này đây khúc tình si ;

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;



Biện pháp điệp từ lại xuất hiện. Này đây có tính chất như một lời liệt kê, một sự xác nhận về sự hiện hữu của những sự vật được nói tới. Tất cả các sự vật ấy lại đều đang ở thì đẹp nhất, tươi non nhất : tuần tháng mật, đồng nội xanh rì, cành tơ, khúc tình si... Mùa xuân được hiện ra bằng vẻ đẹp của tháng giêng tràn trề sức sống xuân thì và tình tứ giao hoà quấn quýt. Ong bướm, hoa cỏ, chim muông, âm thanh và ánh sáng... hiện ra qua những hình ảnh nhân hoá đều tràn đầy hạnh phúc, tươi non mơn mởn, dạt dào sức sống trong một thế giới ngất ngây mộng ảo. Trong con mắt xanh non háo hức của thi nhân, ngày tháng trở thành "tuần tháng mật", âm thanh của thiên nhiên trở thành những giai điệu vô cùng tình tứ. Ta đã từng nghe đến "khúc nhạc hường", "khúc nhạc thơm" (Này lắng nghe em khúc nhạc thơm  Say người như rượu tối tân hôn) và giờ đây là một "khúc tình si". Còn ánh bình minh lại hiện lên độc đáo qua hàng mi dài của người thiếu nữ chớp mắt làm duyên - "ánh sáng chớp hàng mi". Nhịp thơ dồn dập, điệu thơ, ý thơ không dứt đã diễn tả được sự vui mừng, niềm khao khát đến cuống quýt của nhân vật trữ tình trước vẻ hấp dẫn của thiên nhiên. Và bức tranh thiên nhiên muôn màu muôn vẻ hiện lên đẹp và tràn đầy sức sống. Xuân Diệu đã chọn từ ngữ, hình ảnh và cách diễn đạt giàu tính hình tượng, gợi cảm và rất hiện đại để bộc lộ những cảm nhận tinh tế của mình về cuộc sống. Cao trào của cảm xúc đã giúp nhà thơ sáng tạo nên một hình ảnh thật đắt về vẻ đẹp của thiên nhiên :



Tháng giêng ngon như một cặp môi gần



Đây là một hình ảnh so sánh táo bạo và độc đáo, nó cũng thể hiện được quan điểm thẩm mĩ hiện đại của Xuân Diệu. Quan điểm này trái ngược với quan điểm của thơ ca truyền thống. Nhà thơ đã dùng vẻ đẹp của con người, thậm chí rất con người (cặp môi gần) để diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhà thơ đã cụ thể hoá cái khao khát của con người và vẻ đẹp của tự nhiên với từ ngon. Chữ ngon được dùng rất tài hoa. Nhà thơ cảm nhận cái đẹp của mùa xuân không phải bằng thị giác mà bằng cả vị giác, xúc giác, bằng cả tâm hồn luôn "thức nhọn giác quan" để sáng tạo nên một hình ảnh thơ khoẻ khoắn đầy sức sống không chỉ biểu thị niềm vui say ngất ngây trước thiên nhiên mà còn thể hiện một quan điểm mĩ học mới : Con người là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ, vẻ đẹp con người trần thế là tác phẩm kì diệu của hoá công, thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất là vì có con người giữa tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu. Tháng giêng là mùa xuân, mùa của sự đâm chồi nảy lộc, của sự hồi sinh, và đây là thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở. Cho nên với thi sĩ, xuân luôn là thời gian đẹp nhất trong năm. Và để thể hiện điều đó, Xuân Diệu đã chọn một hình ảnh so sánh thật đắt. Bức tranh thiên nhiên ấy đã đủ cho thấy nhà thơ yêu cuộc sống đến nhường nào ! Nhà thơ viết tiếp :



tui sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa :



tui không chờ nắng hạ mới hoài xuân.



Câu thơ đượm màu triết lí. Sau phút giây để cảm xúc thăng hoa cùng vẻ đẹp của đất trời, xúc cảm của nhân vật trữ tình tạm lắng xuống và chuyển sang chiều hướng suy tư. Nhà thơ đã hình ảnh hoá triết lí ấy : không thể để những điều tốt đẹp (xuân) qua đi rồi mới thấy nuối tiếc. Tâm trạng “nắng hạ mới hoài xuân” là tâm trạng rất phổ biến của con người. Bởi thông thường, trong cuộc sống, con người thường không coi trọng những gì mình đang có, chỉ khi nó đã qua đi mới thấy nó có ý nghĩa quan trọng và lại nuối tiếc. Vậy “xuân” không chỉ là hình ảnh khái quát cho những vẻ đẹp của thiên nhiên đã được nhà thơ nói đến ở đoạn thơ trên mà có ý nghĩa khái quát chỉ tất cả những gì mà tạo hoá ban tặng cho con người.



b. Quan niệm chạy đua với thời gian và triết lý sống gấp gáp tận hưởng của tác giả



Mỗi bài thơ của Xuân Diệu bao giờ cũng là một mạch cảm xúc liên tục. ý thơ nọ gọi và nối với ý thơ kia bằng một mối liên kết tinh tế. Sau triết lí rất khái quát ấy là những dòng lí giải tại sao phải vội vàng :



Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Và xuân hết, nghĩa là tui cũng mất.



Những câu thơ là lời bộc bạch chân thành của chủ thể trữ tình. Đoạn thơ tập trung thể hiện và lí giải quan niệm mới của nhà thơ về thời gian. Theo đó, thời gian trôi đi thì không bao giờ trở lại. Nhà thơ đặt thời gian của vũ trụ trong mối quan hệ với thời gian của đời người để giảng giải quan niệm về sự không tuần hoàn của vạn vật :



Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !



Đúng vậy, có thể trời đất còn mãi nhưng con người không thể sống hai lần nên sự tuần hoàn ấy là vô nghĩa. Mọi người vẫn nói, Xuân Diệu là nhà thơ của “cảm thức về thời gian” quả không sai. Nhà thơ rất nhạy cảm với những bước đi vô hình của thời gian. Vì thế, mỗi thời khắc qua đi là một cuộc chia li đầy nuối tiếc và cảm giác mất mát tràn ngập trong tâm hồn thi sĩ. Nhạy cảm về sự mất mát đến mức cảm nhận được cả “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi - Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Tâm trạng của con người đã thấm sang cả cảnh vật. Thiên nhiên được nhân hoá, cũng biết hờn, biết sợ như con người.



Tình yêu thiết tha đối với cuộc sống đã khiến chủ thể vội vàng, cuống quýt đến gần như bị ám ảnh. Nó cho thấy con người ấy yêu cuộc sống và quý trọng những giây phút của cuộc đời đến nhường nào. Thái độ ấy của thi nhân thể hiện một quan điểm sống rất tích cực và tiến bộ. Vội vàng không có nghĩa là chỉ lo hưởng thụ, là sống gấp, mà là sống hết mình, sống tốt, nghĩa là phải biết quý trọng những giây phút của cuộc đời mình để khi thời gian trôi đi không còn phải nuối tiếc quá nhiều. Nhà thơ đã cất tiếng giục giã :



Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm



Thời gian vẫn còn, cuộc sống vẫn luôn rất đáng yêu vì thế hãy sống bằng mọi giác quan, bằng cả trái tim và khối óc, để hưởng tụ cuộc sống quý giá này. Khổ thơ cuối cùng đã diễn tả đặc biệt thành công khát vọng sống đang sôi trào mạnh mẽ trong trái tim thi sĩ trẻ :



Ta muốn ôm...



Từ tui muốn đã chuyển thành Ta muốn, thể hiện sự tăng tiến của khát vọng. Lúc đầu còn e dè, là “tắt nắng”, “buộc gió”. Khát vọng lớn nhưng còn trừu tượng và chung chung. Và dường như chỉ mới dừng lại ở khát vọng níu giữ vẻ đẹp cuộc sống. Còn bây giờ là khát khao hưởng thụ. Và khao khát đó trào dâng rất mãnh liệt.



c.
Một cái tui ý thức ráo riết về giá trị đời sống của một cá thể, một tâm thế sóng cuồng nhiệt tích cực

Cảm xúc đó được thể hiện ở việc chọn dùng từ, cấu trúc, biện pháp tu từ trong đoạn thơ cuối cùng :



Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;

 Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !



Đoạn thơ xuất hiện hàng loạt động từ và đều là động từ mạnh cùng với những tính từ có khả năng biểu hiện cảm xúc mạnh đã bộc lộ được trạng thái cảm xúc cao trào của nhân vật trữ tình. Dường như anh muốn hoà tan mình vào đất trời cây cỏ. Niềm khao khát sống, khao khát giao cảm với đất trời và cuộc đời được bộc lộ mạnh mẽ nhất ở câu thơ cuối :



Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !



Có lẽ chỉ có Xuân Diệu với một tình yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt say mê mới có thể táo bạo và tạo được sự thăng hoa cảm xúc tới mức này. Không còn là ôm, là riết nữa mà là cắn. Xuân Diệu đã sáng tạo cho thơ Việt Nam một hình ảnh thơ vô cùng độc đáo và đã chứng minh rằng tình yêu cuộc sống có thể đẩy cảm xúc của thi nhân đến đỉnh cao của sáng tạo.



Vội vàng
là một dòng cảm xúc chân thành thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ. Giọng điệu, hình thức câu thơ thay đổi linh hoạt với một thế giới hình ảnh đa dạng và phong phú đã tạo nên sức hấp dẫn của thi phẩm. Xuân Diệu đã sáng tạo một hình thức độc đáo để thể hiện những triết lí nhân sinh và quan niệm sống tích cực và sâu sắc. Đặt bài thơ trong không khí của Thơ mới thì mới cảm nhận được tình yêu cuộc sống của nhà thơ mãnh liệt đến chừng nào.



Những sáng tạo của Xuân Diệu trong Vội vàng đã góp phần đánh dấu bước phát triển mới của thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Cái tui cá nhân vốn còn xuất hiện dè dặt trong thơ ca truyền thống, đến Xuân Diệu đã có những bước đi đàng hoàng và chắc chắn lên văn đàn văn học Việt Nam.



3.
Kết luận



Vội vàng
chất chứa một tình yêu cuộc sống thiết tha, qua đó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. Cái cuống quýt vội vàng trong cách cảm , cách nghĩ mà Xuân Diệu thể hiện trong bài thơ không phải là lối sống hưởng thụ cá nhân, mà là sống hết mình dành tất cả cho cuộc đời.



Mạch cảm xúc hối hả tuôn trào như một dòng chảy kết hợp với mạch luận lí chặt chẽ làm nên chiều sâu của thi tứ.



Nhạc điệu say mê hối hả giục giã cùng với những hình ảnh sáng tạo độc đáo tươi mới đã làm nên cái riêng chưa từng có trong hồn thơ Xuân Diệu.




ĐỀ VĂN THAM KHẢO:




Phân tích bài thơ Vội vàng

BÀI LÀM



Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tui cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.Bài thơ mở đầu bằng những ước muốn thật kì lạ:tui muốn tắt nắng điCho màu đừng nhạt mấttui muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay điCon người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Anh ta có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi qui luật bình thường của tạo hoá. Nhưng qui luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tui chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống.Điều nhà thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng gió đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con người: nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li, như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến:Đương lúc hoàng hôn xuốngLà giờ viễn khách điNước đượm màu li biệtTrời vương hương biệt li(Viễn khách)Ý niệm về thời gian ấy còn là nỗi lo sợ cho tương lai “Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm tha thiết với mùa xuân.Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không gian:Của ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửaChưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao như thế. Xuân không còn là bóng dáng mà đã hiện hình cụ thể đến từng chi tiết: vẻ đẹp ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm”, rực rỡ trong “hoa của đồng nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ phất”, mê đắm trong “khúc tình si” “của yến anh” và ngây ngất niềm vui “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng lên “ánh sáng”! Sức sống của mùa xuân làm vạn vật có linh hồn, quấn quít giao cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa những hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế.Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc:Tháng Giêng ngon như một cặp môi gầnMùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hoà vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống!Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực:tui sung sướng. Nhưng vội vàng một nửaNhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét:Xuân đang tới nghĩa là xuân đang quaXuân còn non nghĩa là xuân sẽ giàMà xuân hết, nghĩa là tui cũng mất Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có tự ngàn xưa, không phải là một ý` niệm mới mẻ. Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong thế giớ i của thơ Đường, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước vũ trụ bao la:Ai người trước đã quaAi người sau chưa lạiNgẫm trời đất thật vô cùngRiêng lòng đau mà lệ chảy(Bản dịch Đăng U Châu đài ca)Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tui yêu đời của nhà thơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết.Trong khi đồng nhất hoá mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của qui luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sống đã mất ý nghĩa. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao? Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành hẳn một niềm “bâng khuân”, “tiếc cả đất trời” để làm nên một cuộc chia li bi tráng với mùa xuân:



Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi


Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt


Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc


Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi


Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi


Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?


Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa?




Những cuộc chia li nổi tiếng trong lịch sử văn chương cổ kim có lẽ cũng chỉ bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa tiễn Kinh Kha sang sông hành thích bạo chúa, người chinh phụ đưa chồng ra chiến trận “nhủ rồi nhủ lại cầm tay- bước đi một bước giây giây lại dừng” (Chinh phụ ngâm), tất cả đều cảm động lưu luyến nhưng đó là cảnh chia li giữa người với người. Tản Đà mượn lời “thề non nước”, “tống biệt”, “cảm thu, tiễn thu” cũng chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể không khí của cuộc chia li, từ thời gian “tháng năm”, không gian “sông núi than” đến “cơn gió xinh hờn tủi”, chim “đứt tiếng”… Cảm quan lãng mạn cùng hoà với suy tư về bản thân đã khắc hoạ độc đáo cảm giác tinh tế của nhà thơ. Khung cảnh “rớm vị chia phôi” như san sẻ nỗi niềm của thi nhân, bật thành tiếng than não nuột “chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa”, tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không trở lại.Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” này. trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí củanhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng:




Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm



Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên để thể hiện rõ chất Người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự sống.Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quít kia là sự cuồng nhiệt với đời:Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởnTa muốn riết mây đưa và gió lượnTa muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong một cái hôn nhiềuVà non nước và mây và cỏ rạngCho chếnh choáng mùi hương cho đã đầy ánh sángCho no nê thanh sắc của thời tươi - Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động ôm, riết, say, thâu, hôn, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sống thành thật với chính mình, sống hết mình.Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và ông đã tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi hai mươi:Trong hơi thở chót dâng trời đấtCũng vẫn si tình đến ngất ngư(Không đề - 1983)Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý nghĩa sự sống đời người. Con Người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi châ nthành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về “tấm lòng trần gian” của một người thơ yêu đời mê đắm.





BÀI 6: TRÀNG GIANG Huy Cận 1. Tác giả & tác phẩm



Huy Cận (1919 2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận, sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, gốc làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận là một trong những đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước, từ đó tích cực tham gia các phong trào văn nghệ phục vụ cách mạng và giữ các chức vụ quan trọng trong Chính phủ và trong Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Năm 2001, Huy Cận được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới.



Thơ Huy Cận trước Cách mạng nổi tiếng với tập Lửa thiêng, tập thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng, đó là một nỗi buồn mênh mang, da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, tạo cảm giác cô đơn rợn ngợp. Trước vũ trụ bao la, con người thật nhỏ bé và cô đơn. Đó là tâm trạng chung của các nhà thơ mới. Tâm trạng của thế hệ thanh niên rơi vào tình trạng không tìm ra ý nghĩa cuộc đời, trong họ luôn chứa chất tâm sự thời cuộc.



Sau Cách mạng, thơ Huy Cận vui hơn, hoà cùng niềm vui chung của toàn dân tộc.

Bài thơ Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng. Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp thơ ca cổ điển và tâm sự thời đại.



 Vẻ đẹp cổ điển : Bức tranh thiên nhiên trời rộng, sông dài, sơn thuỷ hữu tình nhưng vắng lặng đìu hiu. Cảnh vật gợi nỗi buồn, sự cô đơn, con người nhỏ bé trước thiên nhiên bao la. Bài thơ sử dụng nhiều yếu tố có tính chất tương phản.



 Cảnh vật gợi nhiều tâm trạng. Tâm trạng nhân vật trữ tình là tâm trạng buồn, cô đơn, nhớ quê hương. Đứng giữa quê hương vẫn khắc khoải nỗi nhớ quê hương là tâm trạng chung của tất cả các nhà thơ mới.



 Cô đơn và nhỏ bé trước cuộc đời nên luôn khát khao được giao cảm với đời. Bài thơ còn gợi tả tâm sự ấy.



Bài thơ có bốn khổ, mỗi khổ như một bài thơ tứ tuyệt Đường thi, khổ nào cũng mênh mông sóng nước và dờn dợn một nỗi buồn sầu. Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn, cô đơn, trống vắng. Đó là nỗi buồn của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước Cách mạng.



2.
Phân tích



Cả bốn câu thơ ở khổ 1 đều tả cảnh nhưng mỗi cảnh lại mang một sắc thái khác nhau. ở hai câu đầu, cảnh vật được gợi tả khá quen thuộc, bình dị, tự nó không có gì đáng buồn : sóng nước, thuyền trôi... "Sóng gợn" là do gió, nhưng khi thêm cụm từ buồn điệp điệp thì sóng ấy đâu còn là hình ảnh thiên nhiên mà là sóng ở trong lòng người. Con sóng có thật của Tràng giang vỗ vào nỗi hiu hắt, cô đơn trở thành nỗi buồn "điệp điệp". Một nỗi buồn âm thầm, da diết khôn nguôi cứ trải ra liên tiếp theo những lớp sóng nối đuôi nhau không dứt trên dòng tràng giang. Cụm từ nước song song cũng là một cấu tứ lạ đăng đối với buồn điệp điệp ở câu trên như để nhấn thêm nỗi buồn. Hình ảnh thơ gợi lên nỗi niềm của cả một thế hệ với biết bao sầu thương, ảo não. Sang đến hai câu sau tình buồn bắt gặp cảnh buồn với cái "sầu trăm ngả" của những chuyển động ngược chiều, ngược hướng "thuyền về, nước lại" và hình ảnh nổi trôi phiêu dạt của một cành củi khô lạc giữa mấy dòng nước. Hình ảnh cành củi ấy gợi lên những ám ảnh về thân phận nhỏ nhoi, phiêu dạt, lạc loài. Nhịp câu thơ trúc trắc (1 - 3 - 1 - 2) phá cách thơ thất ngôn cổ điển cùng phép đảo ngữ, tương phản cũng góp phần nhấn mạnh tâm trạng của nhân vật trữ tình.



Sang đến khổ 2, tầm nhìn rộng hơn, một không gian bao la, cái nhỏ bé vẫn tương phản với cái mênh mông vô cùng. Bức tranh sông nước có thêm vài nét chấm phá với những thi liệu quen thuộc của bài thơ cổ : cồn cát, gió đìu hiu, thuyền - bến cô liêu... Hai từ láy lơ thơ và đìu hiu được dùng rất nhiều rất đắt vừa có giá trị tạo hình vừa giàu khả năng biểu đạt tâm trạng, lại gợi màu sắc cổ kính, gợi hơi hướng cổ thi. Âm thanh tiếng chợ chiều đã vãn nơi làng xa vẳng lại càng gợi buồn. Nó mơ hồ xao xác quá và gợi không khí tàn tạ, vắng vẻ. Có lẽ đây là âm thanh vọng lên từ tâm tưởng, từ niềm khát khao của nhà thơ. Câu thơ thứ 3, thứ 4 mở rộng không gian miêu tả ra nhiều chiều với hình ảnh của nắng xuống, trời lên, sông dài, bến vắng cô liêu càng làm cho cảnh thêm buồn, tâm trạng thêm cô đơn.



Khổ thơ thứ ba, vẻ đìu hiu hoang vắng của cảnh vật được tô đậm hơn đến mức dường như không còn dấu vết của sự sống khiến nỗi buồn được đẩy lên đến tột cùng với điệp từ không, giọng thơ như hụt hẫng. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người, "không một chuyến đò", không có lấy một cây cầu nối liền đôi bờ để có thể tạo nên sự gắn kết con người với nhau.



Khổ thơ cuối miêu tả cảnh hoàng hôn và thể hiện tâm trạng buồn nhớ quê hương của con người - một kiểu tâm trạng và thi hứng rất điển hình của thi ca cổ điển. Cảnh bầu trời cao rộng êm ả lúc chiều tà được chấm phá theo bút pháp Đường thi với hai hình ảnh "đám mây" và "cánh chim" - những thi liệu quen thuộc trong thơ ca trung đại phương Đông. Hình ảnh tương phản giữa cánh chim (cánh chim đã nhỏ lại nghiêng nên càng nhỏ nhoi hơn) và bầu trời gợi cảm giác cô đơn, nhỏ bé và rợn ngợp. Không gian ấy là cái nền để nhân vật trữ tình thể hiện nỗi nhớ quê hương. Nỗi nhớ mênh mang vời vợi, "dợn dợn" trải dài như những con sóng nối đuôi nhau chạy đến vô tận, vô cùng.



Về câu thơ đề từ (Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài) : Đề từ tuy nằm ngoài văn bản tác phẩm, nhưng lại tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài thơ này là một ví dụ tiêu biểu. Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn, đây chính là nỗi buồn (bâng khuâng là có những cảm xúc ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương đan xen nhau) trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát (trời rộng, sông dài).



Về hình thức tổ chức câu thơ và việc sử dụng lời thơ trong các cặp câu :



- Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

- Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.



Cả hai cặp câu thơ trên, về hình thức tổ chức câu thơ cũng như sử dụng lời thơ, đều có sự vận dụng và phát huy một cách sáng tạo những yếu tố cổ điển Đường thi để thể hiện tâm tư của cái tui thơ mới.



Cách tổ chức câu thơ tuân theo phép đối ngẫu phổ biến của thơ Đường. Chúng đều là những cặp câu đối nhau. Tuy nhiên, dạng thức mẫu mực của đối, theo quan niệm cổ điển, là phải đối nhau triệt để (đối câu, ý, chữ, âm...). ở đây, Huy Cận chỉ mượn nguyên tắc tương xứng của đối, chứ không đẩy lên thành đối chọi. Vì thế, câu thơ tạo ra vẻ cân xứng trang trọng, mở ra được các chiều kích vô biên của không gian, mà không gây cảm giác gò bó, nệ cổ. Nghĩa là, một nét thi pháp cổ điển Đường thi đã được cách tân để phù hợp với tâm lí hiện đại.

Cách sử dụng lời thơ cũng vậy. Có những ngôn từ được dùng theo lối thơ Đường, cụ thể là học theo lối dùng từ láy, theo lối song song của Đỗ Phủ trong bài Đăng cao ở cặp câu :



Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ

Bất tận trường giang cổn cổn lai.



Có lối dùng những cụm từ theo cấu trúc thành ngữ bốn tiếng, cả về âm thanh, cả về ý nghĩa : sóng gợn tràng giang, con thuyền xuôi mái, nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng... Có lối tạo từ theo phong cách cổ điển : bến cô liêu. Có lối "lạ hoá" ngôn từ : sâu chót vót. Chót vót vốn là một từ được dùng để diễn tả chiều cao, ở đây được dùng để biểu đạt chiều sâu. Trước Huy Cận chưa thấy dùng như thế. Điều này có vẻ vô lí. Nhưng cái lí của việc sáng tạo này là ở chỗ : tác giả không muốn dừng tầm nhìn ở vòm trời, đỉnh trời mà xuyên sâu vào đáy đáy vũ trụ. Cái tui ấy càng thấy bơ vơ hơn trước cái vô biên đến rợn ngợp như thế. Vì vậy, chiều cao đã chuyển hoá thành chiều sâu một cách thật tự nhiên.



Những hình ảnh "Củi một cành khô lạc mấy dòng" và "Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa" được dùng thật sáng tạo, vừa gợi hình vừa gợi cảm.



Trước hết, đó là những hình ảnh nghiêng về tả thực, bằng những chi tiết sống động. Chúng giúp cho thi sĩ tái hiện diện mạo chân thực của sông nước tràng giang cũng như cảnh không trung lúc hoàng hôn. Thủ pháp bao trùm đều là tương phản: hữu hạn – vô hạn, nhỏ nhoi – lớn lao, hữu hình – vô hình. Nhờ đó, người đọc hình dung được cảnh tượng một tạo vật thiên nhiên thật sinh động và sắc nét.



Cả hai hình ảnh nghệ thuật đều gợi ra thân phận bơ vơ, chìm nổi, vô định của những cá thể nhỏ nhoi giữa tạo vật thiên nhiên mênh mông hiu quạnh. Đối diện với những cá thể ấy, con người không khỏi chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình. Nó cũng là một cá thể bơ vơ, trôi dạt trong cái vô cùng, vô tận của không gian, cái vô thủy vô chung của thời gian.



3.
Kết luận



Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn non nước thể hiện lòng yêu quê hương đất nước thầm kín của một lớp thanh niên trong chế độ cũ. Cảm hứng xuyên suốt Tràng giang là nỗi buồn triền miên vô tận, là nỗi sầu nhân thế. Xuân Diệu khẳng định : "Tràng Giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước ... dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc sau này".



Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ XX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thi ca dân tộc. Trong sáng tác của ông, người ta dễ dàng cảm nhận được dấu ấn Đường thi, cũng như thơ tượng trưng Pháp. Có điều đáng chú ý là chúng đã được Việt hoá một cách nhuần nhị.





Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng giang




Bài làm:




Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.



Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài

Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp



....



Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.



Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.



Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tui của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.



Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.



Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:



Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.



Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.



Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái&quo
 

htdao_1204

New Member
BÀI 7: ĐÂY THÔN VĨ DẠ Hàn Mặc Tử



Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) xuất hiện trên thi đàn văn học đã tạo ra một bất ngờ lớn nhưng sự xuất hiện của Hàn Mặc Tử còn tạo ra sự ngạc nhiên hơn nhiều. Một đời thơ không dài nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại một lượng tác phẩm đáng phục và anh được ví như "ngôi sao băng có ánh sáng khác lạ vụt qua bầu trời văn học" và làm người ta nhớ mãi không quên. Hàn Mặc Tử khiến người ta nhớ đến bởi giọng thơ độc đáo mới lạ của một hồn thơ luôn quằn quại đau đớn trong bất hạnh. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực với một thế giới đầy ma quái là một giọng thơ trữ tình đằm thắm. Tất cả thể hiện một tình yêu đời tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ như thế. Mười hai câu thơ là một mạch cảm xúc chan chứa tình cảm với xứ Huế thơ mộng, với con người trần thế.



Đây thôn Vĩ Dạ
ra đời khi Hàn Mặc Tử đã lâm bệnh nặng, không có cơ hội để trở về với cuộc sống đời thường bởi căn bệnh phong quái ác. Vì vậy bài thơ là sự hoà quyện giữa thực và ảo. Hiện thực là những kỉ niệm về xứ Huế, ảo mộng là những hình ảnh về con người trong mơ tưởng của thi nhân. Theo những người bạn của Hàn Mặc Tử kể lại thì bài thơ được gợi cảm xúc từ tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc gửi cho thi sĩ. Bài thơ là sự quyện hoà của giọng điệu chủ thể trữ tình (thi nhân) và khách thể trữ tình (em).



1.
Tác giả & tác phẩm



Hàn Mặc Tử (1912 1940) là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới (1932 1945). Ông cũng là nhà thơ có số phận bất hạnh hiếm có. Hàn Mặc Tử là một tài năng độc đáo, một tiếng thơ lạ, thể hiện rõ tấn bi kịch của một con người bất hạnh. Mắc phải căn bệnh phong quái ác, phải sống trong sự cách li khi đang tràn trề nhựa sống đã khiến thơ ông nhiều khi như điên loạn với một thế giới hình ảnh thơ đầy ma quái. Thơ Hàn Mặc Tử vừa gợi cho người ta nỗi sợ hãi, vừa đem đến niềm say mê. Chế Lan Viên từng quả quyết rằng : "tui xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kì này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử. Bên cạnh thơ điên, Hàn Mặc Tử còn có những vần thơ trữ tình rất dịu dàng và duyên dáng. Trong số đó có Đây thôn Vĩ Dạ”.



Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ đã lâm bệnh nặng và không còn cơ hội để trở lại với cuộc sống đời thường. Bài thơ mang vẻ đẹp huyền ảo và trong sáng. Thực và hư hoà quyện tạo nên vẻ riêng cho cảm xúc. Bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả đối với xứ Huế, nơi nhà thơ đã từng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, đồng thời thể hiện khát khao được sống, được yêu. Đây cũng là những cố gắng cuối cùng của thi sĩ để níu lại trong mình những giây phút ngọt ngào của cuộc sống trần thế. Cảnh thì đẹp mà tình thì buồn là sự thể hiện đầy đủ nhất tình yêu cuộc sống của thi sĩ bất hạnh mà đầy tài năng này.



2.
Phân tích



Mở đầu bài thơ là khổ thơ viết về thiên nhiên thôn Vĩ với những vẻ đẹp đầy thơ mộng qua dòng hồi tưởng của nhà thơ. Câu thơ đầu có một khả năng gợi mở rất lớn :



Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?



Câu thơ là lời mời, lời trách hay sự nuối tiếc ? Có lẽ là cả ba. Đó là lời mời của cô gái nào đó đang trách hờn "anh"  chủ thể trữ tình của bài thơ hay câu thơ chính là sự phân thân của nhân vật trữ tình để bộc lộ tâm trạng nuối tiếc của mình vì không được trở lại thôn Vĩ nữa. Ba câu sau được nối với câu trước bởi nghệ thuật "vắt dòng" của câu hai. Nhìn nắng hàng cau là lời giải thích "sao anh không về để nhìn nắng" còn nắng mới lên tồn tại độc lập. Đây là lời của cô gái hay chàng trai. Lời của cô gái nhưng bắt đầu có sự xuất hiện của nhân vật trữ tình. Cảnh và người thôn Vĩ hiện lên rõ dần. Bắt đầu là hình ảnh hàng cau  một loại cây quen thuộc trong những khu nhà vườn xứ Huế. Ta đã từng gặp hình ảnh hàng cau trong Nhớ của Hồng Nguyên :



Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau



Đây là hàng cau trong nắng chiều còn ở Đây thôn Vĩ Dạ là hình ảnh hàng cau trong nắng sớm ban mai, giữa những vườn mướt "xanh như ngọc" một hình ảnh trong sáng, thân thuộc đến bất ngờ. Câu thơ như một cái ngước nhìn đầy thú vị. Nắng ban mai êm dịu xen giữa những thân cau thẳng tắp lá còn ướt đẫm sương đêm tạo ra cho cảnh vật một nét đẹp rất thơ mà cũng rất đời thường. Khi nhớ đến thôn Vĩ, nhớ đến xứ Huế mơ mộng người ta không thể không nhắc đến những khu nhà vườn xinh đẹp dưới ánh nắng mai.



Vườn ai mướt quá xanh như ngọc



Vẻ đẹp của thôn Vĩ đã được cảm nhận bằng nỗi nhớ của nhân vật trữ tình (tác giả) chứ không phải là của cô gái nữa. Nhân vật trữ tình đã hiện ra bằng lời trầm trồ thán phục trước vẻ đẹp của thôn Vĩ. Chữ mướt gợi màu xanh non tơ, mềm mại đầy xuân sắc và màu "xanh như ngọc" là màu xanh như có ánh sáng từ bên trong. Ngọc vừa có màu vừa có ánh, vừa toả mát ánh sáng, vừa rười rượi sắc xanh, mướt quá là trầm trồ chứ không phải là nhận xét "quá mướt". Đọc thơ Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh có nhận xét : "có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng lạ". Nhận xét này thật đúng với câu thơ trên. Có lẽ những giọt sương đêm vẫn còn đọng trên lá và khi ánh bình minh soi xuống đã tạo cho khu vườn vẻ đẹp lung linh huyền ảo. Câu thơ cho thấy Hàn Mặc Tử yêu Vĩ Dạ, yêu Huế biết bao nhiêu. Ai có thể tin rằng câu thơ đầy sức sống này lại là của một thi sĩ không còn cơ hội trở lại với đời thường. Ta cũng từng gặp cảnh thiên nhiên như thế ở thi sĩ Xuân Diệu khi anh còn trẻ và đang tràn đầy nhựa sống : “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”.



Tình yêu Vĩ Dạ của thi nhân bắt nguồn từ tình yêu cuộc sống, từ tình yêu với người con gái xứ Huế. Vì vậy con người xứ Huế trong cảm nhận của nhà thơ trong khung cảnh thật gợi :



Lá trúc che ngang mặt chữ điền



Câu thơ viết theo hướng cách điệu hoá. Cách điệu từ đường nét "lá trúc che ngang" đến hình ảnh "mặt chữ điền". Mặt chữ điền từng xuất hiện trong những câu ca dao xứ Huế :



Mặt em vuông tựa chữ điền,

Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài.

Lòng em có đất có trời,

Có câu nhân nghĩa, có lời thuỷ chung.



Với biện pháp nghệ thuật cách điệu hoá, tác giả đã diễn tả được vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, hoà hợp với thiên nhiên của người Vĩ Dạ. Người Huế vốn rất yêu thiên nhiên, cây cỏ là bạn với họ. Họ chăm sóc cây cối giống như chăm sóc con người. Và những ngôi nhà truyền thống của người Huế bao giờ cũng ẩn sau những mảnh vườn mướt xanh. Bốn câu thơ đã tạo nên một vẻ đẹp lung linh huyền diệu cho thôn Vĩ.



Khổ thơ thứ hai có sự thay đổi về không gian và cảm xúc nhưng vẫn là dòng hồi tưởng của nhân vật trữ tình, kỉ niệm lúc này tràn về mãnh liệt đến nỗi từng bước của chàng trai lan toả, xen đầy cả không gian :



Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Mạch cảm xúc không dứt mà tạo một dư âm :

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay ?



Có lẽ cấu tứ của đoạn thơ này được bắt nguồn từ nỗi nhớ về dòng sông Hương êm đềm. Cảnh vật trong khổ thơ buồn da diết, vừa hiện thực vừa hư ảo. Nó khiến người đọc như vừa gặp một ảo giác, cụ thể đấy mà cũng thật mơ hồ. Gió mây thường có mối quan hệ gắn bó khăng khít, "gió thổi mây bay", nhưng ở đây gió mây lại theo hai đường, thậm chí ngăn cách nhau quyết liệt :



Gió theo lối gió mây đường mây



Gió mây ở đây không phải là hiện thực mà nó mang tâm trạng của người trong cảnh chia lìa. Nhớ Vĩ Dạ nhưng không thể trở về nơi ấy được nữa nên buồn và nỗi buồn đã tràn ra cảnh vật :

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay



Trong hồi tưởng của nhân vật trữ tình, dòng Hương giang hiện lên thật buồn. Nhớ Hương giang lại nhớ đến những đêm trăng huyền diệu. Trăng gợi vẻ đẹp huyền ảo song trăng cũng dễ gợi sự cô đơn, lạnh lẽo :



Trăng sáng, trăng xa trăng rộng quá

Hai người nhưng chẳng bớt cô đơn.

(Xuân Diệu)



Trăng từng xuất hiện rất nhiều trong thơ Hàn Mặc Tử với đủ hình dạng, trạng thái khác nhau :



Trăng nằm sóng xoãi trên cành liễu

Đợi gió thu về để lả lơi.



Còn ánh trăng ở đây lại là một ánh trăng huyền ảo, một không gian tràn đầy trăng và thơ :



Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay ?



Sáng tạo độc đáo của Hàn Mặc Tử là ở hình ảnh "sông trăng". Trăng tràn đầy không gian từ dòng sông đến cõi mộng. Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng của trường phái thơ siêu thực và tượng trưng Pháp, có lẽ câu thơ này là kết quả của những ảnh hưởng đó. Hai câu thơ hay mà không thể lí giải cụ thể. Đó cũng chính là bí mật hấp dẫn của thi ca. Ai có thể chở được ánh trăng. Câu thơ gợi lên vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và thể hiện tâm hồn thơ lãng mạn của thi nhân.



Đến khổ thơ thứ ba cảnh vật không còn nữa, kỉ niệm trở về ngập hồn nhân vật trữ tình. Và lúc này những rung động của anh đối với Vĩ Dạ đã tập trung ở hình ảnh người con gái "mờ mờ nhân ảnh".



Mơ khách đường xa, khách đường xa

áo em trắng quá nhìn không ra

ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà ?



"ở đây" là ở đâu ? Dù ở đâu thì cũng đã bị bao phủ bởi sương khói của thời gian. Ai là một đại từ phiếm chỉ. Một đại từ phiếm chỉ được sử dụng hai lần trong một câu thơ, gợi lên bao ý nghĩa. Câu thơ tha thiết một khát khao, một ước nguyện muốn có người hiểu được tâm sự của mình. Đồng thời thể hiện tâm trạng hoài nghi. Trong bài thơ có tới bốn lần tác giả sử dụng đại từ ai, và "anh" và "em" đã hoà nhập trong từ ai ấy, hoà nhập trong tâm tưởng của thi nhân. Câu thơ cuối cùng thoáng chút hoài nghi ấy xuất phát từ lòng khát khao sống, khát khao giao tiếp với cuộc đời ; xuất phát từ niềm khao khát thuỷ chung. Vượt lên nỗi đau riêng, thơ Hàn Mặc Tử nói lên tâm trạng chung của bao lứa đôi xa cách…



"Thơ đi từ cái thực tới cái ảo ảnh, từ ảo ảnh đi tới cái huyền diệu, từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là thế giới mơ", đó là lời của Hàn Mặc Tử về thơ và có lẽ là về chính Đây thôn Vĩ Dạ.



Đây thôn Vĩ Dạ
thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả đối với xứ Huế, nơi nhà thơ đã từng có nhiều kỷ niệm ngọt ngào, đồng thời thể hiện khát khao được sống, được yêu của một con người. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh phong cảnh thật đẹp về thiên nhiên xứ Huế, từ đó thể hiện tình yêu và khát vọng sống mãnh liệt



Hình ảnh độc đáo giàu sức gợi, giàu giá trị thẩm mĩ, ngôn ngữ ngữ cực tả luôn trong trong sáng, súc tích



Cách sử dụng xuyên suốt những câu hỏi tu từ đã tạo nên mạch cảm xúc của toàn baì

Ba khổ thơ không được sắp xếp theo tuyến tính của thời gian và tính duy nhất của không gian, có bước nhảy cảm xúc giữa các khổ thơ tạo nên mạch liên kết đứt-nối độc đáo cho toàn bài

Nhịp điệu của bài thơ bị chi phối bởi cảm xúc ẩn chứa ở mỗi khổ thơ: có khi là nhịp điệu tha thiết đắm say, có khi là nhịp điẹu chậm rãi buồn tẻ./.



THAM KHẢO


ĐÂY THÔN VĨ DẠ – Hàn Mặc Tử



Căn cứ vào bản thân văn bản thơ, ta thấy nổi lên hàng đầu là hình ảnh Huế đẹp và thơ. Bài thơ gồm 3 khổ, 12 câu thất ngôn. Mỗi khổ thơ dường như được dành để nói về một phương diện của Huế.



1/ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi làm sống dậy kỷ niệm về thôn Vĩ, nói rộng hơn về xứ Huế, trong tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn Mặc Tử.




Cảnh buổi sớm nơi thôn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp loáng những hàng cau. Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp thân cao vượt lên trên các mái nhà và những tán cây. Những tàu cao con bóng loáng sương đêm như hút lấy ánh sáng lúc ban mai.




“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” là câu thơ không có gì đặc sắc tân kỳ lắm về mặt sáng tạo hình ảnh và từ ngữ, nhưng càng nghĩ càng thấy tả những vườn cây tươi tốt, xum xuê của Vĩ Dạ cũng chỉ có thể nói như thế mà thôi. Mỗi ngôi nhà ở Vĩ Dạ, nói chung ở Huế, được gọi là những nhà vườn. Vườn bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà xinh xinh thường là nhà trệt, thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ. Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt. Vì thế vườn được chăm sóc chu đáo – Những cây cảnh và cây ăn quả đều xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ, dường như được cắt tỉa, lau chùi, mài giũa thành những cành vàng lá ngọc. Sự ví von ở đây được nâng lên theo hướng cách điệu hoá. Khuynh hướng cách điệu hóa được đẩy lên cao hơn nữa ở câu thứ tư: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đã gọi là cách điệu hóa thì không nên hiểu theo nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hoá cũng xuất phát từ sự thực: thấp thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc, có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng, phúc hậu.




2/ Trong khổ thơ thứ hai, dòng kỷ niệm vẫn tiếp tục. Nhớ Huế không thể không nhớ dòng sông Hương.




Dòng sông Hương, gió và mây. Con thuyền ai đó đậu dưới ánh trăng nơi bến vắng... Bốn câu thơ như diễn tả cái nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế.




Gió theo lối gió mây đường mây


Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay



Cái tinh tế ở đây tả làn gió thổi rất nhẹ, không đủ cho mây bay, không đủ cho nước gợn, nhưng gió vẫn run lên nhè nhẹ cho hoa bắp lay. Tất nhiên đây phải là cảnh sông Hương chảy qua Vĩ Dạ lững lờ trôi về phía cửa Thuận. Đúng là nhịp điệu của Huế rồi.




Hai câu tiếp theo đầy trăng. Cảnh trong kỷ niệm nên cảnh cũng chuyển theo lôgich của kỷ niệm. Cảnh sông Hương không gì thơ mộng hơn là dưới ánh trăng – Hàn Mặc Tử cũng không mê gì hơn là mê trăng. Trăng trở thành nhân vật có tính huyền thoại trong nhiều bài thơ của ông. Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí hư ảo, như là trong mộng:




Thuyền ai đậu bến sông trăng gió


Có chở trăng về kịp tối nay?



Phải ở trong mộng thì sông mới có thể là “sông trăng” và thuyền mới có thể “chở trăng về” như một du khách trên sông Hương... Hình ảnh thuyền chở trăng không gì mới, nhưng “sông trăng” thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử.




3/ Khổ thứ ba: Người xưa nơi thôn Vĩ.




Nhớ cảnh không thể không nhớ người. Người phù hợp với cảnh Huế không gì hơn là những cô gái Huế. Ai làm thơ về Huế mà chẳng nhớ đến những cô gái này (Huế đẹp và thơ của Nam Trân. Dửng dưng của Tố Hữu...)




Những khổ thơ dường như mở đầu bằng một lời thốt ra trước một hình ảnh ai đó tuy mờ ảo nhưng có thực:




Mơ khách đường xa khách đường xa


Áo em trắng quá nhìn không ra



Mờ ảo vì “khách đường xa” và “nhìn không ra” nhưng có thực vì “áo em trắng quá”. Hình ảnh biết bao thân thiết nhưng cũng rất đỗi xa vời. Xa, không chỉ là khoảng cách không gian mà còn là khoảng cách của thời gian, và mối tình cũng xa vời – vì vốn xưa đã gắn bó, đã hứa hẹn gì đâu. Vì thế mà “ai biết tình ai có đậm đà?”




“Ai” là anh hay là em? Có lẽ là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mặc Tử và cô gái mà nhà thơ đã từng thầm yêu trộm nhớ) là “sương khói” của không gian, của thời gian, của mối tình chưa có lời ước hẹn, làm sao biết được có đậm đà hay không? Lời thơ cứ bâng khuâng hư thực và gợi một nỗi buồn xót xa.


Nhưng khổ thơ không chỉ minh hoạ cho mối tình cụ thể giữa nhà thơ và người bạn gái. Đặt trong dòng kỷ niệm về Huế, ta thấy hiện lên trong sương khói của đất kinh đô hình ảnh rất đặc trưng của các cô gái Huế. Những cô gái Huế thường e lệ quá, kín đáo quá nên xa vời, hư ảo quá. Những cô gái ấy khi yêu, liệu tình yêu có đậm đà chăng? Đây không phải là sự đánh giá hay trách móc ai. Tình yêu càng thiết tha, càng hay đặt ra những nghi vấn như vậy.



Tình trong thơ bao giờ cũng là tình riêng. Nhưng tình riêng chỉ có ý nghĩa khi nói được tình của mọi người. Phép biện chứng của tình cảm nghệ sĩ là như vậy. Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi lên trước hết trong khổ thơ này, cũng như trong toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế.




Lời bình


Trong tập thơ mang tựa đề Thơ điên, có hai bài ít điên nhất có lẽ là Mùa xuân chín, và Đây thôn Vĩ Giạ. Cả hai bài đều là những bức tranh xóm thôn, vường tược quê làng. Đọc nó, ta không thể không nghĩ đến Nguyễn Bính vì thơ Tử cũng trẻ trung, tinh tế như kiểu:



Nhà nàng ở cạnh nhà tôi Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn



Thơ Tử có cái xanh rờn của sự sống có thật, sự sống đáng yêu. Còn cái đáng yêu hơn cái giọng điệu ngọt ngào mời mọc:



Sao anh không về chơi thôn Vĩ?



Tục ngữ có câu “Lời chào cao hơn mâm cỗ”. Mâm cỗ có giàu, nhưng lời chào là sang, bởi đó là cái tình, tình người, tình quê, và biết đâu chẳng là mối tình non nước. Hàm nghĩa của câu thơ không tự đóng khung trong một biên độ hẹp nào. Tuy vậy nếu đi quá xa, thêm nữa, lại khăng khang áp đặt cái ý chủ quan, cách hiểu chủ quan thì điều đấy khong những không có cơ sở, mà còn bất lợi cho thơ. Hãy cứ để nó ngân nga trong cái khoảng không là tâm tưởng của người đọc để mỗi người yêu thơ tìm được một hạnh phúc cho riêng mình. Trở lại với cái vị thế ấy, ta hiểu vì sao câu thơ như một câu nói thường? Sức nặng ở ngoài câu chữ đơn sơ là một cái tình đằm thắm. Nó không cần hoa mỹ, cầu kì, một cách nói lên gân cao giọng, là vì nó được đản bảo bằng vàng và những câu tiếp theo. Dường như có một cáI thôn Vĩ mà chỉ cần một lời gọi ở đầu môi, tự nó hiện lên như một khối thuỷ tinh trong suốt. Cho nên đặt câu thơ đầu trong văn cảnh, ta mới hiểu được cáI bình dị sâu sắc của một sự đơn sơ. Nó giống như một thứ cánh cửa vườn lòng hé mở, mà dịu dàng, mà tha thiết biết bao! Cả một câu bảy chữ thì đã có đến sáu chữ đầu cấu tạo bởi thanh bằng. Một phong cách Huế tự nó định hành trong một chất giọng êm ru. Thì ra đằng sau cáI khuôn mẫu thơ Đường là một hồn thi nhân rất trẻ, trẻ cả lời, cả ý như một chiếc nem Huế nhỏ bé, khiêm nhường thơm thảo khó quên. Ấy là chưa nói đến đại từ nhân xưng mà lời mời hướng tới. “Sao anh…”, anh là đối tượng nghe, còn em mới là người nói. Cả người nói và người nghe đã tắm vào một không khí trữ tình đáng yêu mà thân mật lạ lùng. Sự cởi mở tâm tình trong quan hệ giao tiếp trên đây có khả năng, có chức năng làm xôn xao một tiềm thức vốn mơ hồ đã ngay lập tức trở thành cụ thể.



CáI cụ thể ấy cũng chẳng có gì nhiều. Cứ thử nhẩm đếm mà xem: một hàng cau gần gũi, một vườn ai thấp thoáng xa xa, và cũng thấp thoáng xa xa một gương mặt không rõ là ai lẫn trong tre trúc. Cảnh trí có vậy, nghĩa là hết sức đơn sơ nhưng lại nặg lòng quê kiểng. Bức tranh quê sở dĩ từng thức dậy để phô bầy cái vẻ đẹp tự thân, để trở thành hoàn mỹ ấy là do một điểm nhìn hội hoạ. Chọn một thời điểm đặc biệt trong ngày, khi cái nắng mới lên mà bấm máy thì còn gì bằng. Chọn cái trẻ của thời gian phải là người nghệ sĩ có tâm hồn rất trẻ. Cũng là cảnh làng quê ấy, có người chọn buổi trưa, có người lấy hoàng hôn làm bối cảnh. Mà không phải không đẹp. Ví như thơ Bà huyện Thanh Quan chẳng hạn, nhưng là cái đẹp khác, như sự u hoài bảng lảng giữa mênh mông. Không dùng một không gian mênh mông như thế làm nền, cách nhìn của Hàm Mạc Tử ở đây là một cách nhìn cận cảnh, cái nhìn qua ánh nắng đầu tiên. Vì vậy câu thơ đầu tiên tả cảnh, tả hàng cau đã có một nhịp đập khác thường. Nó hồi hộp như phản xạ tự nhiên của con người trước cáI đẹp không ngờ lại hiện ra trước mặt:



Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên



Câu thơ sở dĩ nên thơ vì chất nhạc trong hồn. Vẫn chỉ là cáI nắng bình thường ngày nào chẳng có, nhưng nhà thơ như nhìn thấy nó lần đầu. Không biết có phải nắng đó hay không? Là mơ hay là thực? Dường như thi sĩ không còn tin vào mắt mình. Câu thơ vì vậy vừa như đối thoại (với người không có mặt) lại vừa như tự thoại. Nó mang lớp nghĩa hai tầng vừa hướng ngoại lại vừa hướng nội. Cái nắng đầu tiên trong ngày và trong đời có một sức sống riêng, một linh hồn riêng. Nó làm cho cái vùng ảnh hưởng mênh mông của nó không còn ở thế tĩnh mà sống động hẳn lên. Không phải lần đầu nhà thơ tả nắng. Cái nắng lần đầu ta đã một lần không quên trong Mùa xuân chín. Nhưng cái đẹp trong thơ có phần day dứt, có một cái gì đó không yên. Đọc câu “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”, ta gặp một không khí rất xưa trong hoài niệm. Và cũng từ hoài niệm, Lưu Trọng Lư đã có thơ hay:

tui nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời Lúc người còn sống, tui lên mười Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội Áo đỏ người đưa trước giậu phơi (Nắng mới)



Cả hai đều hướng về phía sau, còn Đây thôn Vĩ Giạ, cái nắng đầu tiên hướng về phía trước. Hai chữ nắng trong một câu thơ tạo nên một tiết tấu khác thường. Có một cái gì như náo nức, cái e ấp của con trẻ lần đầu mặc chiếc áo mới trong cái âm thanh sột soạt, không tránh khỏi cái rạo rực, ngây thơ. Sức hút ở đây là nắng và người chịu tác động của sức hút ấy là nhà thơ. Hàm Mạc Tử cũng trở thành một thứ con trẻ trong hồn, đồng tâm trạng với Lưu Trọng Lư trong bài thơ vừa dẫn. Mặc dù vậy, hai nỗi niềm có khác. Nếu có nắg hồng hào trong thơ của tác giả Tiếng thu gắn liền với áo đỏ (Áo đỏ người đưa trước giậu phơi) thì thơ Tử lại mở ra một màu xanh mát mắt:



Vườn ai mướt quá xanh như ngọc



Thực ra, mướt và xanh là hai khái niệm cùng một gam màu tương tự như rờn, như biếc. Người ta có thể nói xanh biếc, xanh non, và cũng có thể viết trong thơ: xanh mướt. Cái tài sự tinh tế của Hàm Mạc Tử trong thơ chính là ở chỗ không dùng hai từ ấy. Bởi xanh mướt (cũng hội đủ hai yếu tố mướt và xanh) thì yếu ớt quá, đẹp nhưng sinh khí không nhiều, và thay thế cho tình yêu là lòng thương, ái ngại. Dùng mướt quá, rõ ràng khoẻ hơn, sức sống dồi dào hơn, và cả ấm áp nữa. Do vậy mà từ xanh (xanh như ngọc) tự nó lại gieo một ấn tượng mới, không giống với mướt, nó có một vị trí riêng trong cảm nhận. Một trùng điệp màu xanh nhưng không lặp lại đem đến sự hào hứng cho kẻ thi nhân khi đứng trước một bảo tàng nghệ thuật của thiên nhiên bí ẩn. CáI hồi hộp của câu thơ tả cau đã trở thành tiếng reo đầy sung sướng như có ma lực ở câu nói về vườn ai. Cau chắc trước sân nhà thì vườn mới có thể vườn ai. Một từ “ai” buông bắt, mơ hồ hơn. Độ gần xa không còn đồng nhất. Vùng không gian mở ra cùng một lần với vùng tâm tưởng. Cảnh đã là máu thịt của hồn. Hồn đã quấn quyện, đã hài hoà trong cảnh. Làm sao còn có thể phân chia cái cơ thể nghệ thuật toàn bích này đâu là hình thức, đâu là nội dung? Cũng đừng tách bạch cái gương mặt thấp thoáng trong “vườn ai” kia ra thành một người cụ thể nào. Bởi lẽ, nó cũng chỉ là cái chi tiết thoáng qua, một đường nét nằm trong tổng thể. Và bao bọc chung là sự cân đối hài hoà, có thể trong mối tương giao giữa cái mềm mại và khoẻ khoắn. Đơn giản vậy thôi, nếu không rất dễ chủ quan suy diễn.

Toàn cảnh ở bức tranh đầu là cuộc đời mang hơi thở thi nhân: đó là lòng ham sống. Vì nếu không ham sống, không yêu đời, làm sao có thể nhào nặn được một khung cảnh bình dị mà say người thế kia. Nhưng đặt nó vào toàn bài thì dường như là đối cực phía bên kia của một nghịch lí. ở góc nhìn này, khổ thơ ấy mang nghĩa tượng trưng. Cái đẹp, cái thực của cuộc đời tưởng như nằm sẵn trong vòng tay của một tâm hồn yêu nó, nhưng lại không phảI như vậy. Nó với nhà thơ không là một đôI bạn đồng hành. Càng hướng đến nó, tưởng chừng tiếp cận được nó, nó lại càng cứ xa hơn:



Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Bằng một nhạc điệu khác thường, lạnh lẽo, vô tình đến nghiệt ngã, thi nhân diễn tả một tâm thế chơi vơi. Thì ra hạnh phúc mà trời hé lộ ở khổ thơ đầu chỉ là một tín hiệu giả. Nó rạng rỡ, mơ màng. Nó đã là ảo ảnh trong khi với nhà thơ lại là một nhu cầu rất thực. Càng gắn bó với cuộc đời, cuộc đời càng ngoảnh mặt quay lưng. Câu thơ có gió có mây, nhưng rời rạc, chia lìa. Nước có dòng mà không chảy. Hoa bắp thì khẽ khàng nhạt tẻ, vô duyên. So với khổ thơ đầu, cảnh ở đây đã như người bước hụt. Cái vồ vập đã nhanh chóng đổi chiều. Nhà thơ không khỏi ngơ ngác, xót xa. Nắng hình như đã tắt, trời đã sang chiều, vì vậy mới có sông trăng:



Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?



Hồn thơ rất đẹp khi nói đến gió, đến trăng. Trăng như một vương quốc bá quyền của Tử. Vì vậy tắm mình vào đó, vào cái ánh trời đêm bàng bạc, dòng nước vừa buồn thiu là vậy đã biến thành sông trăng như có một phép nhiệm mầu của Chúa. Nhịp thơ như một nhịp cầu, một hi vọng mở ra. Trái tim đau đớn vì va đập vào cuộc đời đã có một cơ hội hồi sinh sau vết thương đau đớn. Nhưng lấy tiêu chí của cái thực để tính cấp độ của nắng và trăng thì nắng là cái có thể nhìn được bằng mắt thường, còn trăng chỉ là cảm nhận được. Phải chăng chính vì vậy mà giọng thơ mới gấp gáp, thiết tha. Thuyền liệu có kịp về bến, trăng có định lừa người? Hạnh phúc mong manh hay là một ảo ảnh, dù có mong manh nhưng còn được hy vọng thì vẫn còn là cái cớ để nhà bấu víu, bám vào để mà tồn tại. Tối nay là tối nào? ý thơ mặc dù không rõ, nhưng trong tâm tưởng của thi nhân, nó phải là cái đêm ngà ngọc thiên đường như một lần Xuân Diệu đã thiết tha: “Đêm nay rằm yến tiệc sáng trên trời”.

Kết thúc bài thơ là con sóng chập chờn giữa mơ với thực ấy:



Mơ khách đường xa, khách đường xa

Vẫn là tiết tấu sóng đôi nhưng vừa tiến lại vừa lui như một quy trình trớ trêu của hình tìm bóng. Người khách đường xa mơ hồ ấy chỉ thấp thoáng mơ màng “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Lại một sáng tạo nữa của Hàm Mạc Tử. Màu trắng và màu trăng như một sự rượt đuổi không bao giờ tới đích. Hình ảnh áo trắng trong thơ Hàm Mạc Tử không giống cách gợi khơi của Huy Cận:



Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong Hôm xưa em đến, mắt như lòng Nở bùng ánh sáng, em đi đến Gót ngọc dồn hương, bước toả hồng



Áo trắng của Huy Cận nếu là thực thể thì ở Tử nó biến thành ảo giác mất rồi. Chính là ảo giác mà hạnh phúc kia càng lấp lánh bao nhiêu, tấm lòng nhà càng quặn đau chừng ấy. “Ai biết tình ai có mặn mà” là một khát khoát biểu trưng mở rộng. Ý nghĩa nội sinh của cặp từ “ai biết tình ai” vừa gần gũi vừa xa vời như khoảng giữa các vì sao. Sự trống vắng trong một tâm hồn rất sợ cô độc lại đang ở vào tình thế cô đơn là cái mạch chính của toàn bài, tạo ra cái cầu từ độc đáo, đầy hình tượng của những phút xuất thần được lặp lại với một mức độ cao và dường như là khó hiểu. Nhưng, hướng về phía nhân bản, phía cuộc đời từ cái tui bản ngã, đó mới là cái hạt nhân bền vững, cái gạch nối giữa người làm thơ và người đọc thơ./.





BÀI 8: TƯƠNG TƯ Nguyễn Bính



Tương tư là câu chuyện muôn thuở của nhân loại. Ngất ngưởng như Nguyễn Công Trứ mà đã từng điêu đứng vì tương tư :



Tương tư không biết cái làm sao,

Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào.

Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,

Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao.

Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,

Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.



Và thi sĩ đa tình, tài tử như Tản Đà cũng từng thể hiện trạng thái nhớ nhung da diết này :



Quái lạ ! Làm sao cứ nhớ nhau

Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu

Bốn phương mây nước, người đôi ngả

Hai chữ tương tư, một gánh sầu.



Tương tư thường gắn với sầu bởi người ta thường rơi vào trạng thái tương tư khi tình yêu không được đến từ hai phía hay không có cơ hội để nói ra.



Nguyễn Bính, nhà thơ chân quê nhất của làng thơ mới cũng viết về tương tư. Nhưng qua việc diễn tả nỗi tương tư của một chàng trai, nhà thơ lại thể hiện tình cảm lớn hơn tình yêu đôi lứa. Đó là tình yêu quê hương đất nước, yêu văn hoá Việt Nam.



1.
Tác giả & tác phẩm



Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho cùng kiệt tại làng Thiện Vịnh (nay thuộc xã Cộng Hoà), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hoá dân gian. Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... Nguyễn Bính đã đóng góp cho thơ mới một giọng điệu riêng, đậm hồn quê.



Bài thơ Tương tư rút trong tập Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính. Qua chuyện tương tư, bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của nhà thơ với quê hương, ở cái hồn quê mộc mạc thấm đẫm trong thi liệu, cảm xúc, ở cách thể hiện đậm phong vị dân gian. Âm điệu, ngôn ngữ, hình ảnh, thể thơ đều rất gần gũi với ca dao. Bài thơ có thể chia làm ba đoạn :



- Đoạn 1 : Nói chuyện tương tư, nhưng là tương tư từ một phía, giọng điệu có vẻ hờn giận trách móc. Thực ra lời trách thể hiện tình cảm tha thiết của người tương tư. Trong lời trách có xuất hiện những hình ảnh rất quen thuộc của làng quê Việt Nam.



- Đoạn 2 : Nhấn mạnh nỗi tương tư và sự chờ đợi, mong ngóng của người tương tư. Trong sự mong ngóng ấy có dự cảm về sự chông chênh của mối tình. Chú ý cách sử dụng cặp hình ảnh "hoa khuê các - bướm giang hồ".



- Đoạn 3 : Mượn chuyện trầu cau để nói chuyện đôi lứa. Ước mong và cũng là lời thổ lộ tình cảm rất dễ thương. Câu hỏi kết thúc đau đáu một niềm mong ước, nó làm tăng thêm sự da diết của tâm trạng và sự nồng nàn của cảm xúc.



2.
Phân tích



Cảm xúc bao trùm và nối kết các phần của bài thơ là nỗi nhớ nhung không nguôi của nhân vật trữ tình chàng trai. Không gian của nỗi tương tư ấy là không gian làng quê. Vì thế tâm trạng tương tư cũng được thể hiện theo kiểu rất thôn quê. Nó cụ thể chứ không mông lung đến mức như chàng trai thị thành Xuân Diệu :



Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…

(Nhị hồ)



Nhân vật trữ tình trong Tương tư của Nguyễn Bính thì khác. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ :



Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một ng­ười chín nhớ m­ười mong một ngư­ời.

Gió mư­a là bệnh của giời,

T­ương t­ư là bệnh của tui yêu nàng.



Không phải là anh nhớ em hay tui nhớ nàng mà là “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Cách nói này vừa khiến cho câu thơ mang phong vị dân gian vừa có tính hàm súc. Chàng trai thôn Đoài nhớ cô gái thôn Đông, đó là mối tương tư của chàng trai nơi thôn quê. Chàng ở nhà mình nhưng lòng hướng sang phía cô gái. Và câu thơ còn gợi một liên tưởng rộng hơn. Dường như nỗi nhớ của chàng trai đã tràn ra cả không gian. Nỗi nhớ ấy da diết lắm. Chàng còn dùng cả thành ngữ chín nhớ mười mong để diễn tả nỗi nhớ của mình. Và cũng chẳng e dè, thẹn thùng gì nữa. Nỗi nhớ da diết khiến chàng trai phải thốt lên lời “tui yêu nàng”. Người ta thường dùng tương tư để chỉ trạng thái tình cảm nhớ nhung của những người yêu đơn phương. Vì yêu mà không dám nói ra với người mình yêu nên nỗi nhớ càng trĩu nặng và tình cảm càng mãnh liệt. Chàng trai tương tư trong bài thơ này cũng có một nỗi nhớ da diết. Chàng trai cũng xác nhận một điều rằng, yêu thì tương tư là lẽ thường, cũng như trời đất phải có gió có mưa.



Từ nhớ thương đến mong ngóng và hờn giận :

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.



Lời hờn giận có vẻ hơi vô lí. Lẽ ra chàng phải sang chứ lại trách cô gái không sang. Chàng dùng cách gọi bên ấy và bên này để chỉ “đối phương” và mình. Trách giận để rồi lại chìm vào nỗi nhớ. Chàng ngồi đếm nỗi nhớ và đếm thời gian để đắm mình trong nỗi niềm tương tư. Ngày lại qua ngày gợi cảm giác thời gian trôi đi dài vô tận. Càng yêu thương thì càng hờn giận. Nỗi tương tư cùng lời trách giận cứ da diết và sâu đậm hơn theo dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình.



Bảo rằng cách trở đò giang,

Không sang là chẳng đ­ường sang đã đành.

Nh­ưng đây cách một đầu đình,

Có xa xôi ấy mà tình xa xôi...



Khi diễn tả nỗi nhớ của nhân vật trữ tình nhà thơ đã dùng những hình ảnh rất gần gũi và quen thuộc với văn hoá làng của người Việt. Con đò, mái đình đã làm cho câu thơ mang đậm phong vị dân gian. Những hình ảnh này đã tạo nên không gian làng quê yên bình, lãng mạn rất thích hợp để chàng trai giãi bày tâm trạng tương tư. Nhịp thơ lục bát da diết “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi” đã thể hiện rất tinh tế trạng thái tâm lí của kẻ đang yêu mà chưa nhận được lời đáp lại. Nỗi nhớ thương không người giãi bày đã làm cho nhân vật trữ tình càng chìm sâu trong nỗi tương tư. Đại từ phiếm chỉ ai lặp lại hai lần trong một câu thơ càng làm tăng nỗi niềm tha thiết của kẻ đa tình. Theo lẽ thường tình càng thương nhớ càng đau lòng. Và khi yêu say đắm mà không được đáp lại thường rơi vào tâm trạng bi quan, tuyệt vọng. Những mối tình thôn quê trong thơ Nguyễn Bính đẹp, tha thiết nhưng hay buồn. Mối tình của chàng trai trong bài thơ này cũng vậy :



T­ương tư­ thức mấy đêm rồi,

Biết cho ai, hỏi ai ng­ười biết cho !

Bao giờ bến mới gặp đò ?

Hoa khuê các, b­ướm giang hồ gặp nhau ?



Những hình ảnh “bến - đò” là những hình ảnh có tính chất truyền thống để chỉ người nam và người nữ. Hình ảnh “hoa khuê các - bướm giang hồ” lại rất đặc trưng cho phong cách các nhà thơ mới. Nó thể hiện tâm trạng lo lắng, bất an của nhân vật trữ tình bởi sự chờ đợi mòn mỏi với nỗi tương tư trĩu nặng trong lòng. Cặp hình ảnh này thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái nét mới và nét lãng mạn trong phong cách thơ Nguyễn Bính.



Khổ thơ cuối cùng mang hình thức của một bài ca dao. Chàng trai trong ca dao thường mượn những cái cớ rất duyên dáng để hay làm quen hay tỏ tình với đối tượng của mình như quên áo, mời trầu, hỏi thăm. Chàng trai trong Tương tư của Nguyễn Bính cũng mượn chuyện trầu cau để giãi bày tâm tư, để tỏ tình :



Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?



Câu hỏi cũng là câu trả lời. Nguyễn Bính đã kế thừa cái thông minh, hóm hỉnh, duyên dáng và rất đáng yêu của ca dao để tạo nên một hình tượng nhân vật với mối tương tư chân thành.

Tương tư đã chứng minh rằng Nguyễn Bính là nhà thơ của hồn quê Việt Nam. Với những bài thơ như Tương tư, nhà thơ không chỉ mang đến cho thơ mới một giọng thơ ngọt ngào phong vị dân gian, đậm đà văn hoá dân tộc mà còn lưu giữ cho thế hệ sau những nét đẹp văn hoá truyền thống.



Tương tư là một bài thơ hay viết về tình yêu- một thứ tình yêu trong sáng, đơn phương và mạnh mẽ. Hồn quê Vit Nam thấm đượm trong từng dòng thơ, thể hiện tình cảm chân thành của nhà thơ đối với những nét đẹp văn hoá dân gian



Cách sử dụng nghệ thuật diễn tả thời gian và không gian trong bài thơ gắn liền với tâm trạng, mòn mỏi, khắc khoải



Nghệ thuật tạo hình ảnh độc đáo và các thủ pháp nghệ thuật nhuần nhuyễn, chất liệu ngôn từ chân quê, đậm chất dân gian./.



THAM KHẢO




1. Trong cách diễn đạt tình cảm của ca dao, dân ca, do bối cảnh giao tiếp và diễn xướng trực tiếp nên nếu các biểu hiện tâm trạng trữ tình luôn được bộc bạch một cách hết sức cụ thể, hồn nhiên thì chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình lại thường có tính chất phiếm chỉ, không xác định :



Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất,

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai.

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt,

Mắt thương nhớ ai

Mà mắt ngủ không yên...



Trong bài thơ của Nguyễn Bính cũng vậy, một chàng trai thôn Đoài mong nhớ một cô gái thôn Đông, nhưng vì chỉ yêu đơn phương thôi nên anh dùng lối nói ỡm ờ, vòng vo, bóng gió xa xôi của người nhà quê : "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông - Một người chín nhớ mười mong một người...". Một cái làng có hai thôn : "Hai thôn chung lại một làng", một ở bên phía đông - thôn Đông, còn một ở phía tây - thôn Đoài. Những cách gọi tên địa danh dân dã ấy khá phổ biến ở khắp mọi vùng quê đồng bằng Bắc Bộ nên chúng vừa cụ thể lại cũng vừa không xác định. "Một người chín nhớ mười mong một người" : hai chữ một người trong cùng một dòng thơ nhưng được dùng để chỉ hai đối tượng, hai nhân vật khác nhau : chàng trai thôn Đoài, và cô gái thôn Đông, điều ấy, những người trong cuộc hiểu rõ hơn ai hết nhưng khách quan thì vẫn chưa có gì là cụ thể. Vì các nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn giữ được cái vỏ ngoài có tính chất chung chung, không xác định như thế nên chàng trai mới có thể thoải mái bộc bạch nỗi lòng "chín nhớ mười mong" của mình : "Tương tư là bệnh của tui yêu nàng", có thể làm như hai người đã thân mật, gần gũi từ lâu để mà hờn mát, trách yêu với người con gái trong lòng : "Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?", "Bảo rằng cách trở đò giang - Không sang là chẳng đường sang đã đành - Nhưng đây cách một đầu đình...", mạnh dạn ngỏ ước muốn được chung tình : "Bao giờ bến mới gặp đò - Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau", thậm chí còn bóng gió xa xôi đề cập đến chuyện trầu cau, cưới hỏi : "Nhà anh có một giàn giầu - Nhà em có một hàng cau liên phòng - Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?" v.v... Cách dùng những đại từ chỉ người đây, đấy, bên ấy, bên này thay thế cho các nhân vật giao tiếp và cách nói trống chủ ngữ của những câu thơ trên đây là một trong những đặc trưng nổi bật của lối nói vòng vo, ỡm ờ, bóng gió xa xôi trong ca dao, dân ca truyền thống đã được Nguyễn Bính vận dụng rất thành công, tạo cho bài thơ một giọng điệu, một dáng vẻ riêng khá độc đáo.



Các biểu hiện tâm trạng tương tư trong bài thơ cũng được diễn tả một cách tinh tế. Trước hết là sự chờ mong mòn mỏi của chủ thể trữ tình :



Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.



Tâm trạng sốt ruột vì chờ mong mòn mỏi ấy không tách rời những cảm nhận tinh tế về sự thay đổi của không gian, thời gian. "Ngày qua ngày lại qua ngày" - một câu thơ với những từ ngữ bình thường và lối nói tưởng như rất giản dị nhưng lại có khả năng diễn tả khá độc đáo về cảm giác của con người mang bệnh tương tư trước sự lặp đi lặp lại từng chuỗi ngày vô vị dài lê thê, chậm chạp trong sự chờ mong khắc khoải. Một câu thơ mà chữ ngày được nhắc tới ba lần, nhấn mạnh cảm xúc về khái niệm đơn vị thời gian như thể được đếm từng ngày. Nhịp 2/2/2 của câu sáu trong thơ lục bát truyền thống đã được ngắt thành nhịp 3/3 : "Ngày qua ngày/ lại qua ngày" chia ý nghĩa câu thơ thành hai vế với nội dung song trùng, ý của vế sau lặp lại vế trước và sự nhấn mạnh chữ lại gợi tả nỗi chán ngán trong lòng kẻ đa tình tương tư trước dòng thời gian vô tình, đơn điệu cứ chậm chạp trôi qua... Cảm giác về thời gian nói trên còn được diễn tả một cách hết sức sinh động thông qua những biến đổi màu sắc của những sự vật không gian trong câu tám : "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng". Thời gian hiện lên qua sự chuyển màu của cây lá : lá màu xanh đã chuyển thành lá màu vàng. Cùng với chuỗi ngày chờ đợi dài đằng đẵng chậm chạp qua đi, nhưng người thương vẫn chưa thấy tới, cho dù chẳng có xa xôi cách trở gì. Chữ nhuộm là một động từ ngoại động, khiến cho sự chuyển màu của cây lá dường như không phải là sự vận động, phát triển nội tại của thực vật mà như thể là do sự tác động của thời gian và tâm trạng con người thấm vào sắc màu của cây lá. Và nỗi lòng tương tư héo hon, mòn mỏi của con người cũng đã nhuộm màu lá xanh thành ra màu héo úa. Vậy là thời gian, không gian và tâm trạng của con người tương tư đã có một mối quan hệ, mối tương giao thật là kì diệu. Tương tư mỏi mòn làm cho thời gian kéo dài lê thê, chậm chạp hơn ; tương tư cũng nhuộm màu cho cây lá trở nên vàng vọt, úa héo hơn...



(Nguyễn Trọng Khánh, Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường

từ góc độ ngôn ngữ
, NXB Giáo dục, 2006)







BÀI 9: CHIỀU TỐI (Mộ) Hồ Chí Minh



Chiều tốilà bài thơ tiêu biểu rút trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại một cách chân thực cảnh người tù sau một ngày chuyển lao mệt nhọc. Ở đó người đọc nhận ra thế giới tâm hồn người tù Hồ Chí Minh là tình yêu thiên nhiên cuộc sống tha thiết, là khao khát ý chí và bản lĩnh người cách mạng. Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh : vừa cổ điển, vừa hiện đại.



Nhật kí trong tù
là tập thơ có giá trị văn học rất lớn của Hồ Chí Minh, được viết bằng chữ Hán nên có rất nhiều điểm gần với thơ Đường. Với những bài Đường luật xinh xắn về hình thức, nồng nàn về cảm xúc,... tác phẩm thể hiện tài năng, tấm lòng, tâm huyết và nhân cách Hồ Chí Minh với cả hai tư cách nghệ sĩ và chiến sĩ.



Bài thơ Chiều tối đã thể hiện đầy đủ và khá điển hình đặc điểm cơ bản nhất của toàn bộ cuốn nhật kí bằng thơ của Hồ Chí Minh, đó là vẻ đẹp cổ điển về hình thức và hiện đại về cảm hứng, toát lên phong thái ung dung tự tại của một người Cộng sản. Dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, Người cũng phát hiện được những vẻ đẹp giản dị mà đáng quý của cuộc sống.

Bài thơ tả cảnh chiều tối ở một sơn thôn. Bức tranh phong cảnh ấy được bố cục làm hai phần :



 Hai câu đầu : tả cảnh vật trong buổi chiều tối. Tất nhiên đây là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù, vì vậy nó là cảnh thật nhưng có ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất hoạ, vừa có khả năng gợi cảm. Sự mệt mỏi của cánh chim, sự cô đơn của đám mây chiều là tâm trạng của người tù đang tha phương.



 Hai câu sau : bức tranh bừng sáng bởi "lô dĩ hồng". Bản lĩnh cứng cáp đã giúp người tù nhanh chóng thoát khỏi cô đơn và mệt mỏi để phát hiện ra sức sống. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.



Bài thơ thể hiện tài năng sáng tạo thơ "thi trung hữu hoạ" của Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện bản lĩnh của người cộng sản.



Hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên mở ra những hình ảnh cụ thể : cánh chim, chòm mây, bầu trời, núi rừng.



Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không ;

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không ;)



Không gian rừng núi có vẻ âm u hoang vắng gợi ra sự rộng lớn mênh mông. Thời gian chiều ngả dần về tối là thời gian nghệ thuật quen thuộc trở đi trở lại trong các tác phẩm thi ca. Nghệ sĩ xưa thường mượn thời gian chiều tối để gửi gắm tiếng lòng mình, để nương náu nỗi buồn của mình. Ca dao xưa có câu :



Chim bay về núi tối rồi

hay trong Truyện Kiều :

Chim hôm thoi thót về rừng,

Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành.



Đọc câu thơ của Hồ Chí Minh khiến người đọc nhớ tới những tứ thơ của người xưa, ý thơ mang đậm sắc thái cổ điển.



Nỗi lòng, tâm trạng người tù sau một ngày chuyển lao vất vả, nhọc nhằn, mệt mỏi được hiện lên qua hình ảnh cánh chim mỏi mệt. Nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" được sử dụng thành công khiến người đọc không chỉ cảm nhận được tiếng nói của tâm trạng con người. Chòm mây trong cái nhìn của người tù là chòm mây cô đơn. Người đọc không chỉ cảm nhận được sự nhọc nhằn, mệt mỏi của người tù mà còn thấy được cả nỗi cô đơn, buồn khổ của người tù trong cảnh ấy. Bản dịch thơ chưa dịch hết nghĩa nguyên tác, không dịch được chữ cô trong cô vân. Bởi vậy lời dịch không làm bật lên sự cô đơn lẻ chiếc của cảnh vật cũng như nỗi cô đơn trong lòng người. Từ láy mạn mạn được dịch là "trôi nhẹ" gợi cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Trong cảm nhận của người tù, áng mây chầm chậm, lững lờ trôi trên bầu trời trong cảm giác cô đơn. Người ta tưởng chừng áng mây như ngưng đọng giữa bầu trời chiều. Có một sự vận động mệt mỏi, ý thơ khác hẳn với cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, lãng mạn mà "trôi nhẹ" đem lại. Bức tranh thiên nhiên có vẻ hoang vắng, tĩnh lặng, thấm nỗi buồn cô đơn của con người. Hai câu thơ không có một từ nào trực tiếp miêu tả người tù và tâm trạng người tù nhưng qua đó vẫn ẩn chứa hình ảnh người tù trong sự mệt mỏi, nhọc nhằn, trong nỗi buồn và sự cô đơn.



Tất cả cảnh vật thiên nhiên : cánh chim, chòm mây, bầu trời đều là những cảnh vật được cảm nhận từ trên cao, trong không gian cao rộng, khoáng đạt. Người ta nhận ra tư thế người tù  tư thế của một con người luôn ngẩng cao đầu với một ý chí, nghị lực mạnh mẽ, với một tâm hồn rộng mở đón nhận vạn vật vào trong lòng mình. Hai câu đầu diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nhưng không gợi cảm giác bi luỵ bế tắc mà vẫn hé mở bản lĩnh, ý chí, nghị lực phi thường của người tù cách mạng.



Nếu như hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thì hai câu sau miêu tả bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người :



Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.)



Hình ảnh "cô em xóm núi" trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh. Hình ảnh con người xuất hiện trở thành tâm điểm của sự sống làm ấm áp cả bức tranh chiều tối hoang vắng, lạnh lẽo. Vẻ đẹp của bức tranh chiều tối được toát lên t
 
BÀI 10: LAI TÂN Hồ Chí Minh

“Nhật kí trong tù không phải là một lời thanh minh hay là lời cảm khái về thân phận long đong, cực khổ của một người tù. Và giá trị của Nhật kí trong tù cũng không phải ở chỗ đã xây dựng được “một biểu tượng lớn của Việt Nam và một phần nhân loại ở thế kỉ XX : hình tượng người tù, hình tượng người lưu đày”. Nhật kí trong tù đã tố cáo cái tính chất phi lí, bất công vốn là nét bản chất của chế độ xã hội thối nát Tưởng Giới Thạch”([1]). Nội dung này được thể hiện rất rõ trong nhiều bài thơ của Bác. Việc Bác bị bắt cũng chính là hậu quả của chế độ bất công, vô nhân đạo của chính quyền Tưởng. Cũng là đại biểu đi dự hội nghị các nước Đồng minh chống phát xít, trong khi các đoàn đại biểu Mĩ, Anh được đón tiếp nhiệt tình thì Bác, đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh lại bị bắt giam.



Trong những ngày bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được mắt thấy tai nghe bao nhiêu điều ngang trái chốn nhà tù. Chế độ nhà tù thối nát, vô nhân đạo đã được tái hiện trong nhiều bài thơ của Bác. Trong đó, Lai Tân là một bài thơ tiêu biểu cho nghệ thuật châm biếm thâm thuý của Bác.



Bài thơ thuộc tập Nhật kí trong tù, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong những ngày Bác bị giam cầm trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch.



Thành công của bài thơ là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo, với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình với một kết cấu chặt chẽ.

Bài thơ có giọng điệu rất bình thản và khách quan. Bốn câu thơ chia làm hai phần, ba câu đầu và câu cuối. Ba câu đầu là giọng điệu tự sự, câu cuối thể hiện thái độ của Bác. Câu thơ cuối tạo nên tính chất bất ngờ cho toàn bài. Nội dung tư tưởng và giá trị của bài thơ được tập trung bởi sự mâu thuẫn giữa hai phần của bài thơ.



Ba câu đầu, tác giả lần lượt kể về “công việc” của các nhà chức trách. Mỗi người một việc và họ đều rất say mê với công việc của mình :



Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh ;

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,



Chuyện đánh bạc của đám quan lính cai ngục đã được Bác nói đến trong nhiều bài thơ thuộc tập Nhật kí trong tù. Đánh bạc là việc chính của bọn cai ngục. Một điều rất phi lí là chính quyền bắt những người đánh bạc ở ngoài cho vào tù. Còn những kẻ cai tù, thay mặt cho cái chính quyền coi đánh bạc là phạm pháp ấy lại ngang nhiên đánh bạc và hành động ấy là “chuyên”. Còn bọn quan lính giải người thì ăn đút lót, hành hạ người tù để họ phải nộp tiền cho chúng. Câu 1, giọng điệu khách quan thản nhiên. Đến câu 2, thái độ của người kể đã bắt đầu bộc lộ, dù rất kín đáo, với việc sử dụng cụm từ kiếm ăn quanh. “Kiếm ăn” chỉ hành động kiếm tiền một cách bẩn thỉu của những kẻ được coi là thay mặt cho luật pháp.



Câu thứ ba, tác giả lại dùng lối nói châm biếm rất sâu cay, thâm thuý về việc làm của “huyện trưởng”. Có vẻ như huyện trưởng rất e sợ cho việc công. Nhưng đặt câu thơ trong toàn bài, trong mối quan hệ với ba câu còn lại có thể hiểu ngay “làm công việc” của huyện trưởng là gì. Chắc chắn không phải là hết lòng với việc riêng. Nếu vị huyện trưởng say sưa với công việc như vậy thì không thể có chuyện “chuyên đánh bạc” và “kiếm ăn quanh” ở trên. Và tác giả cũng không thể dùng cụm từ vẫn thái bình ở câu bốn. Vậy, “chong đèn làm công việc” ở đây là say sưa bên bàn đèn thuốc phiện, bên chiếu bạc hay những công việc không mấy sạch sẽ trong đêm.



Câu thơ cuối tạo nên kết cấu bất ngờ cho toàn bài thơ. Mâu thuẫn trào phúng, tính chất châm biếm của bài thơ được tạo nên bởi mâu thuẫn này.



Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.



Đây là kiểu thái bình giả tạo. Bộ máy chính quyền thối nát đến như thế thì làm sao có được thái bình cho dân chúng. Những kẻ thay mặt cho chính quyền, có trách nhiệm đảm bảo sự ổn định, thái bình cho xã hội lại là những kẻ nhũng nhiễu nhiều nhất.



Hồ Chí Minh đã dùng văn thơ như một thứ vũ khí chiến đấu vô cùng sắc bén và có hiệu quả trong sự nghiệp cách mạng của mình. Và bút pháp trào phúng là bút pháp chủ lực tạo nên sức mạnh chiến đấu trong sáng tác của Người. Lai Tân là một trong những bài thơ sử dụng thành công bút pháp này. Bằng việc chọn phác hoạ hành động của mấy tên cầm quyền trong chính quyền Tưởng, Người đã khái quát hoá bộ mặt thối nát của xã hội Trung Quốc thời kì những năm bốn mươi của thế kỉ XX.



Bằng những thủ pháp nghệ thuật châm biếm, tài tình, bài thơ hướng tới mục đích đả kích mạnh mẽ sự thối nát vô nhân đạo của chế độ nhà tù nói riêng và chế độ XH Trung Quốc nói chung- thời Tưởng Giới Thạch. Bài thơ có phong cách nghệ thuật châm biếm, tinh tế, thâm thuý, sâu sắc.



Nghệ thuật sử dụng ngôn từ đặc sắc, đặc biệt là cách dung nhãn tự thái bình ở cuối bài./.






BÀI 11: TỪ ẤY Tố Hữu



Tố Hữu là nhà thơ có vị trí rất quan trọng trong nền văn học cách mạng Việt Nam. Trong thơ Tố Hữu, cái tui trữ tình, trẻ trung, sôi nổi và đầy nhiệt huyết là cái tui gắn với cách mạng, cái tui mang trong mình lí tưởng cộng sản. Với tập thơ Từ ấy, Tố Hữu đã bắc chiếc cầu nối giữa hình thức thơ mới với thơ ca yêu nước và cách mạng. Giữa lúc các nhà thơ mới còn băn khoăn, còn đắm mình trong nỗi buồn đau, cô đơn tuyệt vọng, thì Tố Hữu với Từ ấy đã cất lên khúc hát ngợi ca lí tưởng cách mạng và tự tin khẳng định sự đúng đắn của con đường mình đã chọn. Từ ấy thể hiện tâm trạng háo hức, tràn đầy niềm tin và hi vọng của người cộng sản trẻ tuổi.



Đặt bài thơ vào hoàn cảnh xã hội, chính trị, văn hoá thời điểm nó ra đời mới hiểu và lí giải được những cung bậc cảm xúc mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Bài thơ ra đời vào thời kì cách mạng Dân tộc dân chủ 1936 - 1939. Năm 1930, Đảng Cộng sản ra đời, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tố Hữu thuộc lớp thanh niên sớm được giác ngộ cách mạng. Và người thanh niên với trái tim tuổi hai mươi đang căng đầy sự sống đã đến với cách mạng bằng niềm phấn khích của người vừa tìm thấy con đường lí tưởng của đời mình. Nhân vật trữ tình của bài thơ là người cộng sản trẻ tuổi với quan niệm cao đẹp về lí tưởng sống - lí tưởng cộng sản.



1. Tác giả & tác phẩm



Tố Hữu (1920 2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh tại Hội An, quê ở làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tốt nghiệp Thành chung (cũ).



Tố Hữu sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, từ sáu, bảy tuổi Tố Hữu đã học và tập làm thơ. Ông giác ngộ cách mạng trong thời kì Mặt trận Dân chủ và trở thành người lãnh đạo Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế. Những bài thơ đầu tiên của Tố Hữu được sáng tác từ những năm 1937  1938. Tháng 4 1939, ông bị thực dân Pháp bắt, giam giữ ở các nhà lao miền Trung và Tây Nguyên. Tháng 3 1942, Tố Hữu vượt ngục ĐacLay, tiếp tục hoạt động cách mạng bí mật đến năm 1945. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Trung ương và Chính phủ.



Tác phẩm đã xuất bản : Từ ấy (thơ, 1946), Việt Bắc (thơ, 1954), Gió lộng (thơ, 1961), Máu và hoa (thơ, 1971), Ra trận (thơ, 1972), Một tiếng đờn (thơ, 1992), Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973), Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981).



Giải thưởng văn học : giải Nhất Giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam 1954 - 1955 (tập thơ Việt Bắc) ; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I, 1996) ; Giải thưởng văn học ASEAN (1999).



Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị. ở ông, con người chính trị và con người thi sĩ thống nhất làm một. Chặng đường thơ của ông gắn liền với những chặng đường cách mạng của cả dân tộc. Mỗi tập thơ của ông đánh dấu một giai đoạn lịch sử của đất nước. Cả sự nghiệp sáng tác thơ ca của mình, ông dành trọn vẹn cho cảm hứng cách mạng vì thế thơ ông luôn sục sôi ý chí cách mạng. Chỉ đến tập thơ cuối đời, tập Một tiếng đờn, thơ ông mới lắng xuống với giọng điệu thâm trầm đầy trải nghiệm.



Từ ấy
là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu, tập hợp những sáng tác của ông từ 1937 đến 1946, thể hiện niềm say mê lí tưởng và niềm khát khao chiến đấu hi sinh cho cách mạng. Tập thơ gồm ba phần : Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng. Bài Từ ấy rút từ phần Máu lửa.



2.
Phân tích



Khổ thơ đầu tiên của bài thơ diễn tả tâm trạng vui sướng của nhân vật trữ tình tác giả khi bắt gặp lí tưởng cộng sản :



Từ ấy trong tui bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tui là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim…



Một vấn đề chính trị, vấn đề lí tưởng sống, nhưng đã được tác giả thể hiện bằng một hình thức “rất đỗi trữ tình”. Niềm vui được thể hiện một cách tự nhiên và thành thực. “Từ ấy” là từ khi được giác ngộ cách mạng, được dẫn dắt vào con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Cùng thời với nhân vật trữ tình, những năm ba mươi ấy, khi mà cách mạng Việt Nam còn hoạt động bí mật, có rất nhiều thanh niên Việt Nam có tấm lòng yêu nước thương nòi, nhưng họ đã không thể hay không có cơ hội để đến với cách mạng. Lớp thanh niên ấy đã rơi vào tâm trạng bế tắc, chán chường, người thì tìm đến với thế giới cô đơn, người lại tìm đến với thế giới tưởng tượng để trốn tránh hiện thực hay tìm quên bằng những cách của riêng mình. Tâm trạng bế tắc của lớp thanh niên ấy được thể hiện rất rõ trong thơ mới. Nhân vật trữ tình của bài thơ may mắn hơn. Anh đã tìm ra con đường đi cho cuộc đời mình, đó là con đường chung của cả dân tộc. Để thể hiện niềm vui ấy, nhà thơ đã chọn dùng một loạt từ ngữ gợi hình và gợi cảm : bừng (nắng hạ), chói (qua tim), rất đậm (hương), rộn (tiếng chim). Đây đều là những từ ngữ có khả năng biểu hiện trạng thái mạnh của sự vật, sự việc. Nó vừa đột ngột, vừa mạnh mẽ, vừa sôi nổi và sâu sắc. Vì thế nó thể hiện được trạng thái cảm xúc hưng phấn của nhân vật trữ tình. Khổ thơ như tiếng reo vui đầy phấn chấn. ánh sáng của cách mạng chói sáng như “nắng hạ”, như “mặt trời” soi đường cho nhân vật trữ tình. Khi đất nước mất chủ quyền, nhân dân sống trong lầm than nô lệ, cả dân tộc như chìm trong đêm tối, mỗi người phải tự dò dẫm để tìm ra con đường sống cho mình. Cách mạng đã soi đường cho người chiến sĩ trẻ. Cách mạng không chỉ là ngọn đèn mà là “mặt trời”  nơi chân lí chói sáng. Bắt gặp ánh sáng ấy, tâm hồn người thanh niên trẻ tuổi bừng dậy sức sống, nó được ví như một vườn cây đầy sức sống. Nhịp thơ dồn dập, câu thơ nối dòng đã thể hiện thành công tâm trạng vui mừng của nhân vật trữ tình. Đó là tâm trạng lạc quan tin tưởng vào con đường cách mạng của người thanh niên trẻ chưa gặp thất bại và những gian khổ trên con đường hoạt động cách mạng.



Sau giây phút đầy hào hứng và vui mừng, tâm trạng nhân vật trữ tình tạm lắng xuống, suy tư hơn. Hai khổ thơ tiếp theo thể hiện nhận thức của nhân vật trữ tình về con đường cách mạng mình đã chọn. Đó là sự thức tỉnh về mối quan hệ tình cảm cách mạng, tình cảm dân tộc. Cùng thời với Tố Hữu, nhưng khi chưa đến được với cách mạng, nhà thơ Chế Lan Viên viết :



Hãy cho tui một tinh cầu giá lạnh

Một vì sao trơ trọi cuối trời xa

Xuân Diệu thì cực đoan :

Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta



Còn Huy Cận thì cảm giác bơ vơ, nhỏ nhoi trước cảnh “sông dài, trời rộng, bến cô liêu” với tâm trạng “lòng quê dợn dợn vời con nước”. Tiến bộ như người li khách ra đi vì chí nhớn nhưng vẫn đượm buồn và phảng phất nỗi lẻ loi đơn độc :



Li khách ! Li khách con đường nhỏ

Chí nhớn chưa về bàn tay không...



Đó là tâm trạng của những thanh niên chưa tìm được vị trí của mình trong lòng dân tộc, chưa có tình cảm cách mạng. Vẫn là một cái tui cá nhân -nhưng nhân vật trữ tình trong Từ ấy thì khác hẳn. Anh đã ý thức rất rõ mối quan hệ tình cảm của mình với nhân dân



Sau khi bừng ngộ, phục sinh là sự đổi đời:

tui buộc lòng tui với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tui với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.



Khi được giác ngộ cách mạng, nhân vật tui coi như mình đã thuộc về dân tộc, về nhân dân. Cái tui ấy không còn tách rời mà hoà trong cái Ta chung của cả dân tộc để tạo nên khối đại đoàn kết, làm nên sức mạnh dân tộc. Đây là một nhận thức đúng đắn, thể hiện sự giác ngộ cách mạng sâu sắc của nhà thơ. Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh và từ ngữ có khả năng biểu hiện rõ mối quan hệ tình cảm cách mạng : buộc, trang trải, gần gũi, khối đời. Những từ ngữ ấy đã cụ thể hoá tình cảm cách mạng vốn là những khái niệm rất trừu tượng.



Quan niệm về lí tưởng cộng sản của nhà thơ được thể hiện rõ hơn ở khổ thơ cuối :



tui đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ…



Nhân vật trữ tình đã ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với dân tộc khi anh dấn thân vào con đường cách mạng. Làm người cách mạng thì bản thân mình không còn là của riêng mình nữa. Người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi đã đặt lên vai mình nhiệm vụ cách mạng cao cả. Và anh đã sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cách mạng. Là “con”, là “em”, là “anh” của những người cùng khổ, anh đã tự nguyện gắn mình vào mối quan hệ máu thịt với họ, những người đã và đang chịu cảnh nô lệ lầm than. Và chính những con người ấy là lực lượng nòng cốt của cách mạng.



Người chiến sĩ trẻ hoàn toàn tin tưởng vào con đường mình đã chọn. Thái độ của anh đầy quyết tâm và dứt khoát. Nhà thơ đã dùng biện pháp lặp từ để biểu hiện thái độ dứt khoát của nhân vật trữ tình. Nhịp thơ mạnh cùng những từ được lặp lại để, là đã thể hiện ý chí cánh mạng của người chiến sĩ trẻ.



Giọng điệu nổi bật của bài thơ là giọng vui tươi, dứt khoát, hào hứng và đầy quyết tâm. Đó là giọng điệu thể hiện niềm hạnh phúc của người thanh niên đã tìm ra con đường đúng đắn của cuộc đời mình.



Từ ấy
thuộc phần Máu lửa, phần đầu của tập thơ Từ ấy. Bài thơ được sáng tác trong những ngày đầu tham gia cách mạng. Dù đã đi trên con đường cách mạng, đã nhận thức được nhiệm vụ, trách nhiệm của người cộng sản và phần nào hình dung được những gian khổ của cuộc đời cách mạng, nhưng lại chưa phải trải qua những giam cầm, đày ải và sự khắc nghiệt thực sự của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vì vậy giọng thơ là giọng điệu lạc quan, tin tưởng và tràn đầy niềm tin hi vọng. Nhưng cũng chính niềm lạc quan cách mạng ấy đã làm nên sức mạnh để người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi có đủ sức mạnh vượt qua những gian nan khổ cực của cuộc đời hoạt động cách mạng sau này.



Với Từ ấy, nhà thơ Tố Hữu đã mang đến cho thơ ca Việt Nam một giọng thơ mới, giọng thơ trẻ trung, đầy niềm tin cách mạng. Bài thơ đã giúp cho thế hệ sau có cơ hội hiểu rõ hơn về một thời gian khổ nhưng đáng tự hào của dan tộc mình. Nó cũng góp phần lí giải vì sao dân tộc Việt Nam lại có đủ sức mạnh để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình như vậy.



Từ ấy
thể hiện niềm hạnh phúc vô bờ của một thanh niên trẻ tuổi bắt gặp lý tưởng cách mạng, tìm ra con đường đi đúng đắn cho mình. Bài thơ là niềm say mê là khát vọng cống hiến trọn đời cho nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhà thơ đã đưa ra một quan niệm sống đúng đắn, đó là quan niệm sống đúng đắn, đó là quan niêm sống vì cộng đồng, vì dân tộc

Những hình ảnh thơ giàu giá trị biểu cảm, đặc biệt là việc sử dụng nghệ thuật ẩn dụ mang sắc thai thẩm mỹ cao



Cách xưng hô tui của nhân vật trữ tình làm bật lên cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ, khẳng định một cái tui nghệ sĩ trán đầy khát vọng, mơ ước, lý tưởng



Cách diễn đạt giản dị, tự nhiên, điệp từ để, là được sử dụng sáng tạo thể hiện nhịp thơ dồn dập, thôi thúc, hăm hở. Bài thơ có giọng điệu say sưa, náo nức, đầy sảng khoái./






BÀI 12: TÔI YÊU EM A. Puskin



Pu-skin là thay mặt xuất sắc của văn học Nga thế kỉ XIX. Ông thành công ở các thể loại như truyện ngắn, trường ca và thơ trữ tình. Thể loại nào của Pu-skin cũng đậm chất trữ tình và đề cao khát vọng tự do của con người. Nhưng với tui yêu em, Pu-skin luôn được nhắc đến với tư cách là nhà thơ tình vĩ đại. tui yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng thế giới, bài thơ đã gắn với tên tuổi Pu-skin trong lòng bạn đọc.



Nhân vật trữ tình trong bài thơ giãi bày tâm trạng theo mạch cảm xúc. Bài thơ được chia làm hai câu, mỗi câu hai vế, mỗi vế hai dòng thơ :



- Hai dòng thơ đầu : khẳng định tình cảm của nhân vật trữ tình “tôi” đối với em : vẫn còn yêu em.



- Hai dòng tiếp theo : tấm lòng hi sinh cao cả của nhân vật “tôi” dành cho người. Một biểu hiện cao thượng của tình yêu. Đây là phần lí trí.



- Hai dòng tiếp theo : cảm xúc và tâm trạng thật của nhân vật trữ tình. Đó là những trạng thái, cung bậc tình cảm rất chân thực của người đang yêu. Chứng tỏ tình yêu vẫn đang rất mãnh liệt và chân thành.



- Hai dòng cuối cùng : vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Dù là mối tình đơn phương nhưng tình yêu của nhân vật “tôi” là một tình yêu đẹp thể hiện một tâm hồn cao thượng. Vẻ đẹp của toàn bộ cảm xúc thơ toả sáng ở dòng thơ cuối cùng. Một lời tỏ tình, một cách thổ lộ tình yêu đẹp nhất và tinh tế nhất.



Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình “tôi” được bắt đầu bằng một lời thổ lộ rất chân thành :

tui yêu em : đến nay chừng có thể



Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai ;



Có thể nhận ra một sự không bình thường trong lời bày tỏ của nhân vật trữ tình. Đó không phải là một lời tỏ tình ở một giai đoạn bắt đầu một mối tình. Có vẻ như là một sự xác nhận về một tình cảm đơn phương từ phía “tôi”. Một tình cảm như đã từng bị cố làm cho lụi tàn nhưng nó lại “chưa hẳn đã tàn phai”. Hai dòng thơ, đơn giản là một lời xác nhận sự tồn tại của một tình yêu. Một tình yêu mà dù muốn cũng không thể nguôi quên. Nhưng điều đáng nói là mục đích của lời bày tỏ ấy. Mong muốn được đáp lại tình cảm hay thể hiện một điều gì khác :



Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,

Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.



Một mong muốn cao thượng chỉ có thể xuất phát từ một tình cảm chân thành của một trái tim biết yêu thương, biết hi sinh. Câu thơ đã xác nhận một chân lí của tình yêu là đã yêu thì không đòi hỏi, yêu là mong muốn những điều tốt lành đến với người mình yêu thương : “tui chẳng muốn em buồn vì bất cứ lẽ gì”.



Quả thực tình yêu đã nâng con người lên cao hơn. Mặc dù nhân vật “em” không xuất hiện trong bài thơ nhưng qua cảm nhận của nhân vật trữ tình thì đó phải là một người con gái rất đáng yêu. Chấp nhận âm thầm chịu đựng tình yêu đơn phương, nhân vật trữ tình đã nâng mình lên cao hơn.



Câu thơ đầu có sự tham gia rất mạnh mẽ của lí trí. Đây là giai đoạn mà lí trí vẫn điều khiển được trái tim. ý thơ thẳng thắn, minh bạch và rất rõ ràng : còn yêu và rất yêu nhưng không muốn làm em phải suy nghĩ. Câu thơ như lời tự nhủ với chính mình với một quyết tâm rất cao. Nhưng nếu chấp nhận dễ dàng như vậy thì có vẻ lí trí quá và tình yêu của “tôi” đối với em chưa đủ sức thuyết phục, còn kém mãnh liệt. Sự mãnh liệt của tình yêu được thể hiện ở bốn dòng thơ tiếp theo :



tui yêu em âm thầm, không hi vọng,

Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,

tui yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,

Cầu em được người tình như tui đã yêu em.



Dường như lí trí đã nhường chỗ cho cảm xúc. Những trạng thái cảm xúc phức tạp và đầy mâu thuẫn của trái tim đang yêu đã được bày tỏ rất chân thành. Sự tăng tiến của tình cảm, cảm xúc khiến câu thơ có khả năng truyền tải tình cảm mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Sức nặng của tâm trạng và trung tâm thẩm mĩ của bài thơ nằm ở câu thơ thứ hai này :



tui yêu em âm thầm không hi vọng

Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen,



Một lần nữa, mối tình đơn phương lại được xác nhận. Vì không muốn em phải bận lòng thêm nữa nên phải “âm thầm”. Yêu không hi vọng, yêu đơn phương vẫn là tình yêu, thậm chí còn là một tình yêu rất sâu sắc. Có rụt rè có ghen tuông thì đích thị là tình yêu. Nhưng sự hờn ghen và không hi vọng ấy không làm giảm đi vẻ đẹp của tình cảm mà nhân vật trữ tình dành cho “em". Đó là một lời bày tỏ chân thành. Nhịp thơ dồn dập, liên tiếp xuất hiện các tính từ chỉ trạng thái cảm xúc, đã bộc lộ mức độ mãnh liệt của tình yêu. Trong bài thơ có tới ba cụm từ tui yêu em thì hai cụm tập trung ở câu thứ hai và được gắn với những tính từ cảm xúc (âm thầm, không hi vọng, chân thành, đằm thắm).



tui yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,



“Chân thành”, “đằm thắm” là hai phẩm chất mà mọi tình yêu đều muốn đạt tới, đó là tiêu chuẩn lí tưởng của mọi mối tình. Nếu thiếu hai “tiêu chuẩn” thì không còn là tình yêu nữa. Và mức độ chân thành, đằm thắm được xác nhận và cụ thể hoá một cách khéo léo và đầy thuyết phục ở dòng thơ cuối cùng :



Cầu em được người tình như tui đã yêu em.



Tư tưởng và giá trị của bài thơ được cô đọng ở câu thơ này. Chỉ một lời cầu chúc thôi nhưng nói được bao điều. Nó khẳng định tấm tình chân thành của “tôi”, đồng thời thể hiện “tui yêu em” là tình yêu mãnh liệt và chân chính. Câu thơ hội tụ vẻ đẹp của cảm xúc và cảm hứng của nhân vật trữ tình.



Nhìn lại mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ thì đây là bài thơ về một mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể hiện một quan niệm rất nhân văn về tình yêu. Và mạch cảm xúc của bài thơ được phát triển theo lôgíc tâm trạng nhưng có sự kết hợp rất khéo với lí trí. Sự hài hoà giữa cảm xúc và lí trí đã tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn cho bài thơ. Tâm trạng được thể hiện không quá bản năng nhưng cũng không quá nặng nề khô cứng. Cảm xúc có khi mâu thuẫn với lí trí nhưng lại được giải quyết một cách rất hợp lí, hợp với sự phát triển của mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Một tình yêu chân thành của một trái tim biết yêu thương thực sự đã thể hiện một tư tưởng nhân văn cao đẹp. Một vấn đề thuộc về đạo đức và nhân cách con người đã được nhà thơ thể hiện dưới một hình thức giản dị và giàu khả năng gợi cảm. Đây cũng chính là một trong những thành công nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Pu-skin.



Cầu em được người tình như tui đã yêu em.



Lời cầu chúc giản dị mà thể hiện được cả một nhân cách. Đó là lời cầu chúc tuyệt vời nhất của nhân loại. Thói thường tình yêu thường kèm theo sự ích kỉ, ai đã yêu mà không từng “hậm hực lòng ghen”. Nhân vật “tôi” cũng như vậy. Nhưng sự ích kỉ không thể chiến thắng được sự cao thượng của một trái tim biết yêu thương. Nếu chỉ là lời cầu mong cho người mình yêu những điều tốt đẹp nhất thì đơn giản quá và không có khả năng thể hiện tình yêu như “cầu em được người tình như tui đã yêu em”. Bài thơ là lời bày tỏ tình cảm, vì vậy cái ẩn ý đằng sau câu thơ, làm cho cảm xúc thơ chân thực hơn chính là ở lời cầu mong này. Lời cầu chúc cũng chính là lời khẳng định tình yêu chân thành và đằm thắm của mình, đó là tình yêu thực sự, tình yêu xứng đáng nhất với em. Đây không chỉ là một lời cầu chúc tuyệt vời nhất, thể hiện hay nhất tình cảm của “tôi” mà còn là một lời thổ lộ thật thông minh. Chấp nhận yêu đơn phương, chấp nhận sự thực là em sẽ có người khác nhưng lại nhấn mạnh và xác nhận tình yêu mãnh liệt của mình, liệu có mâu thuẫn không ? Liệu có cô gái nào yên lòng trước lời cầu chúc chân thành và đáng yêu như thế. Quả thực bài thơ thật đẹp, thật trong sáng. Với một tình yêu như thế dù được đáp lại hay không thì vẫn là một tình yêu lí tưởng, những trái tim yêu như thế sẽ giúp con người ngày càng người hơn.



Thơ trữ tình Pu-skin là kết quả của một tâm hồn được nuôi dưỡng bởi bầu sữa của văn hoá dân gian Nga nên luôn trong sáng, ngọt ngào và giàu giá trị nhân văn. tui yêu em là kết tinh xuất sắc nhất. Pu-skin cũng từng viết về những tình yêu không được đáp lại như thế nhưng với một trạng thái cảm xúc khác. Tình cảm cũng rất chân thành, mãnh liệt nhưng trái tim không được đáp lại thì không cao thượng, không sẵn sàng hi sinh như thế mà cay đắng và khắc nghiệt hơn :



Giữa vườn xuân và bóng đêm tĩnh mịch

Chim hoạ mi thánh thót bên nhành hồng

Nhưng đoá hồng kia chẳng chút động lòng

Mà lặng lẽ đong đưa rồi thiếp giấc

Bản tình ca vẫn du dương và réo rắt.



Tình cảm của chim hoạ mi  nhân vật trữ tình  cũng mãnh liệt và da diết, thậm chí rất kiên nhẫn mặc dù thái độ của “nhành hồng” rất lạnh lùng, lạnh lùng đến vô tâm. Có lẽ vì thế mà sự kiên nhẫn không được đáp lại ấy đã biến thành một tâm sự cay đắng, lời yêu ngọt ngào trở thành một lời chì chiết :



Vì sắc đẹp lạnh lùng người hót làm chi ?

Hỡi thi nhân hãy mau tỉnh dậy đi

Uổng công thôi người nhìn thấy đấy

Nó mơn mởn sắc hương lộng lẫy

Nhưng chẳng có gì xúc động cảm rung

Nó làm ngơ chẳng đáp lại tiếng lòng.

(Pu-skin, Con chim hoạ mi và nhành hồng)



Tất nhiên đây không đơn giản là một bài thơ thuần tuý nói chuyện tình yêu, mà còn là tâm sự của nhà thơ về cuộc đời. Dù sao trước hết nó vẫn là một bài thơ tình với hai hình ảnh thơ rất lộng lẫy “con chim hoạ mi” và “nhành hồng”. Hai nhân vật trữ tình ở hai bài thơ đều có chung một điều là đều yêu đơn phương nhưng lại có hai thái độ ứng xử hoàn toàn khác nhau. Một đòi hỏi được đáp lại ; một cao thượng và giàu đức hi sinh. tui yêu em là một định nghĩa chuẩn mực về tình yêu. Dù đơn phương hay song phương thì tình yêu cũng cần đức hi sinh và sự cao thượng. Sự ích kỉ sẽ biến lòng ghen tuông thành thứ thuốc độc giết chết mọi tình yêu. Trong trường ca Đoàn người Tsư-gan, mối tình giữa A-lê-cô và cô gái Tsư-gan là một mối tình ích kỉ. A-lê-cô từ chối và chạy trốn khỏi cuộc sống vương giả của xã hội thượng lưu, nơi mà theo chàng là :



Cảnh giam hãm phố phường ngột ngạt

Một đống người nhung nhúc giữa đường

(Puskin, Đoàn người Tsư-gan)



để đến với cuộc sống tự do giữa thảo nguyên. Nơi đó chàng đã có một mối tình đẹp và đã từng “Chỉ mơ ước được yêu em mãi mãi”. Nhưng đến khi cô gái Tsư-gan quen với cuộc sống tự do đi tìm tình yêu khác cho mình, lòng ghen tuông đã biến chàng thành thú dữ :



Con không thể : con không chịu mất

Để cho người mà không giành giật

ít ra con hưởng khoái trả thù.



Và chàng đã nhẫn tâm giết chết hai người trẻ tuổi. Có thể thấy tình yêu của A-lê-cô điển hình cho kiểu tình yêu ích kỉ của lớp thanh niên thượng lưu. Đoàn người Tsư-gan quen sống tự do và cao thượng không thể chấp nhận anh, như lời lão trượng nói khi đuổi A-lê-cô khỏi đoàn :



Chúng ta sống man di không luật lệ

Chẳng nhục hình chẳng giết hại một ai

Chẳng đòi người có tội phải đền bồi

Chẳng đòi máu, chẳng đòi rên xiết.



Đó là phẩm chất của nhân dân. Họ yêu cuộc sống tự do và luôn cư xử rất cao thượng. Vì thế họ mới “sinh ra” thiên tài Pu-skin, họ mới có được tình cảm đẹp như tui yêu em. Họ chất phác và hồn hậu trong mọi mối quan hệ, vì thế những kẻ còn mang thói ích kỉ của quý tộc, tư sản không hợp với cuộc sống tự do của họ. A-lê-cô chán ghét xã hội thượng lưu nhưng chỉ biết đi tìm tự do cho riêng mình thì “Sinh ra không phải cho cuộc sống ngàn hoa nội cỏ”. Dù sáng tác ở thể tài nào, sáng tác của Pu-skin luôn thể hiện một tình cảm trong sáng và rất nhân văn. Thơ văn của ông vẫn luôn hướng đến những tình cảm đẹp đẽ và nhân đạo nhất.

Với thủ pháp nghệ thuật tạo sự tương phản giữa các vế của câu thơ, giữa hai câu thơ và ngôn ngữ thơ giản dị, giàu cảm xúc, Pu-skin đã thể hiện một quan niệm hoàn chỉnh về tình yêu. Đó là một tình yêu con người nhất. Đã có rất nhiều thi nhân viết về tình yêu và họ đều viết rất hay nhưng có lẽ tui yêu em là bài thơ giản dị, đời thường và chứa đựng nhiều nhất giá trị nhân văn. Với một trái tim biết yêu thương và một khả năng sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời, Pu-skin xứng đáng là "niềm tự hào không phải chỉ của văn học Nga mà của toàn bộ nền văn học thế giới”. Thơ tình của Pu-skin không chỉ chiếm được cảm tình của bạn đọc trẻ tuổi mà còn có sức tác động rất mạnh đến tâm hồn bạn đọc. Và một điều chắc chắn rằng tui yêu em là lí tưởng về một tình yêu đích thực, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến những nhà thơ tình xuất hiện sau ông. Một trong những luồng ánh sáng phát ra từ “mặt trời thi ca Nga” chính là thứ ánh sáng lung linh huyền ảo của một trái tim luôn yêu thương tất cả bằng một tình yêu cao thượng, kết quả và kết tinh của văn hoá Nga.



Qua bài thơ, tác giả thể hiện một quan niệm đẹp và nhân văn về tình yêu. Đó là một tình yêu chân thành và cao thượng, biết hy sinh và chia sẻ vì tình yêu



Bài thơ có kết cấu chặt chẽ, mạch thơ linh hoạt

Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị, sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ

Nhịp thơ lúc chậm rãi, đứt quãng, khi thì nhanh gấp gáp, dào dạt, lúc lắng đọng da diết./.







BÀI 13: NGƯỜI TRONG BAO A.P.Sê-khốp



Lịch sử xã hội Nga thế kỉ XIX là lịch sử một thế kỉ không ngừng đấu tranh chống ách nông nô chuyên chế. Văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX ra đời, phát triển trở thành một trong những nền văn học tiên tiến nhất của nhân loại. Các nhà văn Nga đã trưởng thành và cống hiến cho nhân loại những giá trị văn hoá tinh thần cao quý. A. Sê-khốp được coi là người đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỉ XIX. Trong lĩnh vực truyện ngắn, ông là nhà cách tân nghệ thuật thiên tài. Truyện của ông thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân bản sâu xa.



Viết trong bối cảnh xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nông nô bảo thủ nặng nề thế kỉ XIX, truyện ngắn Người trong bao đã phản ánh một cách chân thực sinh động bộ mặt xã hội và hình ảnh con người. Tập trung vào chủ đề “con người bé nhỏ”, Sê-khốp bên cạnh sự cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của con người, còn phê phán nghiêm khắc những tật xấu của họ. Đặc biệt, môi trường xã hội bảo thủ nặng nề đã đẻ ra những thứ sản phẩm người “quái thai”, “kì dị” rất đáng phê phán và loại bỏ. Hình tượng “người trong bao” là một phát hiện nghệ thuật của nhà văn. Hình ảnh con người mắc chứng bệnh sợ hãi, bạc nhược đến nỗi sống và chết một cách thảm hại đã khái quát một triết lí sâu sắc tiếp nối chủ đề “con người thừa” trong văn học Nga suốt thế kỉ XIX.



1.
Tác giả và tác phẩm



An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp (1860 - 1904) xuất thân trong một gia đình lao động bình dân ở tỉnh Ta-gan-rốc. Ông là nhà văn Nga kiệt xuất trong lĩnh vực truyện ngắn và kịch.



Truyện ngắn Người trong bao (1898) được Sê-khốp viết trong bối cảnh cả xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề cuối thế kỉ XIX. Câu chuyện nói về một người điển hình về chứng bệnh sợ hãi, bạc nhược - đây là một phát hiện đặc sắc có tính triết lí và khái quát nghệ thuật cao của nhà văn.



2.
Phân tích



Nhân vật Bê-li-cốp – "người trong bao", được nhà văn xây dựng bằng những thủ pháp nghệ thuật phong phú. Nhà văn vừa miêu tả dáng thói quen sinh hoạt của nhân vật, vừa sử dụng lời đối thoại trực tiếp của nhân vật đi kèm với lời người kể chuyện tạo cho người đọc có cái nhìn toàn diện về nhân vật.



Cách miêu tả dáng thói quen sinh hoạt của nhân vật Bê-li-cốp khá đặc biệt thể hiện một sự quan sát chi tiết, kĩ lưỡng. Lúc nào cũng vậy, Bê-li-cốp đều đi giày cao su, cầm ô và nhất thiết mặc áo bành tô ấm cốt bông. Ông ở trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt để trong bao và chiếc dao nhỏ gọt bút chì cũng ở trong bao. Bê-li-cốp với mắt đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông, ngồi xe ngựa thì thu mình lại. Có vẻ như một bộ dạng hài hước đến phi lí nhưng ngay cả bộ mặt của hắn “dường như cũng ở trong bao”. Hình ảnh cái bao như một ám ảnh đối với người kể chuyện khi tả lại dáng Bê-li-cốp. Tưởng như cái bao đó là một tấm vỏ đáng sợ gói chặt hắn đến ngạt thở, làm tấm ngăn cách hắn với cuộc sống bên ngoài. Người kể chuyện vẫn còn kể thêm chi tiết “Cả ý nghĩ của mình, Bê-li-cốp cũng cố giấu vào bao”. Tưởng như thâm hiểm, thần bí lắm nhưng thực chất đó là một kiểu người kì quặc đến quái dị. Ngay cả “thói quen” của hắn cũng rất lạ. Việc đi hết nhà này đến nhà khác không nói không rằng, mắt nhìn xung quanh như kiếm vật gì rồi lại cáo từ làm người ta hoảng sợ. Hắn cho đó là cách duy trì mối quan hệ tốt đẹp. Sự im lặng – “trong bao” ấy như hàm chứa trong đó một sự bảo thủ trì trệ, ngu dốt, bạc nhược đến thảm hại.



Tự giam mình trong bao, hắn sống cũng rất “thảm hại”. Buồng ngủ “chật như cái hộp”, cửa sổ đóng kín mít, khi ngủ “kéo chăn trùm đầu kín mít”... Nhưng Bê-li-cốp nằm trong chăn rồi vẫn thấy sợ. Một nỗi sợ vô hình bao trùm hắn. Thức, hắn sợ. Mơ, hắn cũng sợ. Những giấc mơ khủng khiếp để lại cho hắn nét mặt tái nhợt, rầu rĩ. Tâm lí sợ hãi giống như một bóng ma vây lấy hắn, nhưng kì lạ là các nhân vật khác cũng hoảng sợ “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách…”. Một sự mê muội hoang tưởng của những kẻ hèn yếu. Những kẻ tự giam mình trong vỏ ốc cá nhân ích kỉ bạc nhược, những kẻ không dám đấu tranh vượt lên chính mình. Hình ảnh dân chúng trong vòng mươi, mười lăm năm trở lại đây đâm ra sợ hãi khiến người đọc có những liên tưởng thú vị. Đây phải chăng là diện mạo chung cho cả xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng bảo thủ khắc nghiệt. Một bầu không khí u ám đến ngạt thở mà tất cả đều tự nhốt mình trong bao. Cả xã hội – ở mức độ này hay mức độ khác, đều là người trong bao.



Cách đối thoại trực tiếp của Bê-li-cốp với Cô-va-len-cô càng bộc lộ rõ hơn tính cách “người trong bao”. Lại là một chuyện phi lí khi Bê-li-cốp cho rằng đi xe đạp “hoàn toàn không phù hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Vẫn là một sự nhận thức mê muội, nhảm nhí, một sự bảo thủ đến ngu dốt, nhưng khi hắn “tái mặt”, khi động đến chuyện “cấp trên”, “chính quyền” thì tính cách của Bê-li-cốp lại có một biểu hiện khác. Hắn chính là một kẻ bạc nhược, một sản phẩm dị hợm của xã hội bảo thủ. Những con người như Bê-li-cốp là những công cụ đắc lực của xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng, những kẻ ngu dốt lại có tài bợ đỡ, luồn cúi. Hình ảnh “cấp trên”, “chính quyền” chính là bóng ma của “quyền lực” bao phủ câu chuyện.

Cái ngã lộn nhào và cái chết của Bê-li-cốp được tác giả thuật lại bằng giọng điệu hài hước. Mọi việc diễn ra “như không”. Bê-li-cốp không quan tâm tới việc ngã có đau không, có xây xước gì không mà điều đầu tiên xem “cặp kính có còn nguyên vẹn không”. Hắn không quan tâm đến việc ngã như thế nào mà chỉ sợ ai đó đã trông thấy lúc hắn ngã thì thật là “kinh khủng”. Hắn sợ mình là trò cười nhưng nỗi “sợ” của hắn đã biến hắn thành một tên hề đáng cười nhất. Hắn run rẩy trong nỗi sợ mù quáng và cũng chết trong sự mù quáng ấy. Quả thực, tiếng cười của Va-ren-ca đã chấm dứt cuộc đời Bê-li-cốp. Va-ren-ca cười khi cái bao che phủ con người Bê-li-cốp bị rách toạc, hình ảnh người trong bao lộ mặt. Mọi sợ hãi của Bê-li-cốp đã thành sự thực. Không phải chết do cú ngã, hắn lên giường và không dậy nữa. Hắn chỉ đáp “không” hay “có” rồi đến im lặng vĩnh viễn.



Cái chết của Bê-li-cốp là tất yếu, chấm dứt cuộc đời của một kẻ quái thai trong xã hội. Đây cũng là điều khiến mọi người thấy “nhẹ nhàng, thoải mái”. Nhưng bi kịch chính ở chỗ hắn chết trong sự thảm hại mà vẫn “tươi tỉnh lắm”, mừng như “được chui vào trong cái bao”. Cái nhìn hiện thực sắc sảo của tác giả đã khai thác rất sâu tính bi kịch của câu chuyện. Một kẻ ngu dốt hoang tưởng, bạc nhược hèn yếu nhưng lại không nhận ra được chính mình. Một kẻ bị ru ngủ trong sự bảo thủ trì trệ.



ở cuối truyện, lời người kể chuyện mang đầy sắc thái chiêm nghiệm : “Trên thực tế, Bê-li-cốp đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu kẻ như thế nữa”. Hình ảnh người trong bao không chỉ có một mà là số đông, là cả một xã hội bạc nhược, nhát sợ. Cái xã hội mà bóng ma chuyên chế nông nô bao phủ lấn át. Sự xuất hiện của những con người kiểu Bê-li-cốp đã kìm hãm sự phát triển phồn thịnh của đất nước, đẩy nước Nga chìm đắm trong màn đêm đen tối lạc hậu. Lời của bác sĩ I-van có ý nghĩa thức tỉnh sâu xa. ý thức được bản thân mình là kiểu “người trong bao” để rồi quyết tâm phá bỏ nó là cả một quá trình nhận thức tiến bộ. “Không thể sống mãi như thế được” – câu nói của I-van đã thắp sáng niềm tin tươi sáng vào sự phát triển của dân tộc. Trong ánh hoàng hôn ảm đạm của nước Nga nông nô chuyên chế, sự dũng cảm loại bỏ cái xấu xa hèn kém của chế độ Nga hoàng đã khẳng định tầm nhìn vĩ đại của Sê-khốp, khẳng định ông là một bậc thầy của cách mạng hiện thực Nga cuối thế kỉ XIX.



Người trong bao là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm phê phán sự vô nhân đạo của chế độ chuyên chế Nga hoàng đã huỷ diệt tinh thần sáng tạo, ý chí vươn lên của con người. Đồng thời tác phẩm cũng là lưòi cảnh tỉnh những ai vẫn đang ru ngủ mnhf trong cái bao cá nhân, vị kỉ hay đang nhu nhược, chấp nhận thoả hiệp hay đầu hàng trước thử thách, trước cái xấu.



Tác phẩm đã xây dựng dáng nhân vật đặc sắc, với các thủ pháp nghệ thuật hấp dẫn, xây dựng các chi tiết nghệ thuật điển hình có sức khái quát cao, sử dụng thành công nghệ thuật đối thọai, giọng điệu trần thuật sinh động…



 

me_o

New Member
BÀI 14: NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN (Trích Những người khốn khổ) Vích to-Huy gô

Vích-to Huy-gô (1802 - 1885) là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch lãng mạn nổi tiếng của Pháp. Cha ông là một tướng lĩnh cách mạng, mẹ ông là người có tư tưởng bảo hoàng. Ông ảnh hưởng tư tưởng của mẹ, nhưng sau rời bỏ và trở thành chủ soái của dòng văn học lãng mạn tích cực.



Tác phẩm chính : về thơ có các tập Lá thu (1831), Trừng phạt (1853), Mặc tưởng (1856) ; về tiểu thuyết có Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (1831), Những người khốn khổ (1862) ; về kịch có Héc-na-ni (1830),...



Tiểu thuyết Những người khốn khổ :



Giăng Van-giăng là người lao động nghèo, bị khép tội tù khổ sai vì đã ăn cắp một cái bánh mì cho cháu. Ra tù, ông trở thành người tốt nhờ sự cảm hoá của Giám mục Mi-ri-en. Ông đổi tên là Ma-đơ-len, mở nhà máy, giàu có và trở thành thị trưởng. Nhưng ông luôn bị thanh tra Gia-ve nghi ngờ và theo dõi. Ông giúp đỡ Phăng-tin, tìm và nuôi Cô-dét, con gái Phăng-tin. Giăng Van-giăng còn cùng mọi người chiến đấu chống chính quyền tư sản. Ông cứu sống Ma-ri-uýt, người yêu của Cô-dét và tha chết cho Gia-ve. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, ông vun đắp cho tình yêu của Ma-ri-uýt với Cô-dét và cuối cùng chết trong cảnh cô đơn.

Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền thể hiện sự lên ngôi của cái Thiện, sự thảm bại của cái ác và khẳng định tấm lòng nhân đạo cao cả của V. Huy-gô đối với những con người khốn khổ.



Đoạn trích có thể được chia làm 3 phần :



Phần 1 (từ đầu đến rùng mình) : nêu bối cảnh câu chuyện và nỗi sợ hãi của Phăng-tin trước Gia-ve.

Phần 2 (tiếp theo đến tắc thở) : cảnh bắt Giăng Van-giăng và cái chết của Phăng-tin.

Phần 3 (đoạn còn lại) : thái độ và tâm trạng của Gia-ve và Giăng Van-giăng trước cái chết của Phăng-tin.



Trong đoạn trích, người đọc thấy có sự phân chia hai tuyến nhân vật khá rõ. Đối lập với một Gia-ve hung hãn, tàn ác là một Giăng Van-giăng cương nghị, kiên quyết. Khi quyết định ra tự thú cứu Săng-ma-chi-ơ, Giăng Van-giăng đã trở thành một kẻ tội phạm bị truy đuổi của Gia-ve nhưng ông vẫn hoàn toàn bình tĩnh. Trong khi Gia-ve “phá lên cười, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”, “nắm lấy cổ áo Giăng Van-giăng thì Giăng Van-giăng “không cố gỡ bàn tay hắn”. Trong khi người ta gọi Gia-ve là “ông thanh tra” thì Giăng Van-giăng chỉ gọi hắn với cái tên “Gia-ve”. Con người Giăng Van-giăng dường như không chịu bất cứ một sự uy hiếp nào. Đặc biệt, sau khi Phăng-tin chết, thái độ của Giăng Van-giăng đối với Gia-ve càng kiên quyết hơn. Ông “cậy bàn tay” Gia-ve như “cậy bàn tay trẻ con”. Ông “lăm lăm cái thanh giường” và “nhìn Gia-ve trừng trừng”. Không chỉ vậy, lời nói của Giăng Van-giăng đầy nghiêm khắc : “’tui khuyên anh đừng quấy rầy tui lúc này”. Lời khuyên nhưng đã hàm ý trong đó một sự đe dọa, phản kháng – một lời cảnh cáo của Giăng Van Giăng trước Giave. Có lẽ chính thái độ bình tĩnh và kiên quyết ấy của Giăng Van Giăng đã làm cho Giave run sợ. Một “ông thanh tra” được quyền bắt bớ đánh đập, đe doạ người khác lại bị một tên tù khổ sai uy hiếp. Đó cũng là sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác. Trong lời nói của Giăng Van-giăng, người đọc cảm nhận được vị thế kiêu hãnh ngạo nghễ của một “ông thị trưởng” của quyền lực chính nghĩa. Đây chính là hình ảnh của một “người cầm quyền” đã khôi phục được uy quyền của mình. Kẻ thuộc hạ dưới trướng của Giăng Van-giăng cuối cùng cũng phải run sợ, cúi đầu.



Ở đoạn trích, người đọc cũng thấy đối lập với một Gia-ve hung ác là một Giăng Van-giăng giàu tình thương. Bỏ mặc sự đe doạ của Gia-ve, Giăng Van-giăng vẫn e sợ và săn sóc cho Phăng-tin. Lời “cầu xin” của Giăng Van-giăng : “Xin ông thư cho ba ngày ! Ba ngày để đi tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương kia ! Phải trả giá thế nào tui cũng chịu. Nếu muốn, ông cứ đi kèm tui cũng được” đã biểu hiện rõ tấm lòng yêu thương cao cả của ông. Tấm lòng cảm thông của Giăng Van-giăng trước hoàn cảnh đáng thương của Phăng-tin khiến người đọc cảm động. Đó là một nghĩa cử đẹp đẽ đáng trân trọng. Để rồi ngay chính Gia-ve cũng phải ngạc nhiên : “á, à. Tốt thật ! Tốt thật đấy !”. Hành động của Giăng Van-giăng là sự toả sáng của tinh thần nhân văn cao cả. Trong khốn khổ hiểm nguy, lòng tốt và tình yêu thương của con người vẫn được “thăng hoa” rực rỡ.



Phăng-tin chết, Giăng Van-giăng “xót thương khôn tả”, ông “tì khuỷu tay lên thành giường, bàn tay đỡ lấy trán”… Ông ngồi yên lặng, “chẳng nghĩ đến điều gì trên đời này nữa”. Lời nói thì thầm của Giăng Van-giăng có ý nghĩa sâu xa. Người ta không rõ ông nói gì với Phăng-tin. Chỉ biết sau lời nói ấy người ta thấy xuất hiện “một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”. Khuôn mặt Phăng-tin ánh lên một sự thanh thản, giống như là mãn nguyện hạnh phúc. Nụ cười của Phăng-tin là điểm sáng của tác phẩm. Nó làm mờ đi những tăm tối hà khắc, những hung ác bạo ngược. Đó cũng là nụ cười của niềm tin lạc quan và khát vọng chiến thắng không gì dập tắt. Lời thì thầm của Giăng Van-giăng có thể là lời hứa tìm lại đứa con cho Phăng-tin, hay có thể là một viễn cảnh tương lai tươi sáng được mở ra. Dẫu thế nào, người đọc cũng cảm giác một niềm hạnh phúc lan toả đánh thức tâm hồn người ta. Phăng-tin đi vào cõi chết những cũng chính là đi vào “bầu ánh sáng vĩ đại” – sự giải thoát khỏi đau khổ, hạnh phúc để bước vào sự đổi thay của thế giới, sự chiến thắng của tinh thần nhân văn bất diệt. Đó cũng là bức thông điệp đẹp đẽ của chủ nghĩa lãng mạn Vích-to Huy-gô trong tác phẩm.



Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền thể hiện sự lên ngôi của cái thiện, sự thảm bại của cái ác và khẳng định tấm lòng nhân đạo cao cả của V.Huy-gô đối với những con người khốn khổ

Ngòi bút khắc hoạ dáng nhân vật đặc sắc

Sử dụng những chi tiết nghệ thuật độc đáo có sức BC cao

Ngôn ngữ người kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn./.

BÀI 15: ĐÁM TANG LÃO GÔ-RI-Ô (Trích “Lão Gô-ri-ô”)

H. Ban-dắc

Tiểu thuyết Lão Gô-ri-ô đ­­ược nhà văn xếp vào Những cảnh đời tư thuộc phần Khảo luận phong tục. Đó là câu chuyện về một ng­ười cha, một t­­­ư sản mới phất sau 1789  với những mối quan hệ của ông ta trong xã hội. Lão Gô-ri-ô vừa là sản phẩm vừa là nạn nhân thê thảm của xã hội kim tiền mà ông ta là một thành viên tích cực tạo nên nó. Và lão Gô-ri-ô không phải là trường hợp cá biệt, bởi nh­ư lời phu nhân Đơ Lăng-giê nói với Ra-xti-nhắc “mình chẳng thấy tấn bi kịch đó diễn ra hàng ngày đó sao ? Chỗ này thì đứa con dâu đâm ra xấc láo hết nư­ớc với ông bố chồng đã hi sinh tất cả cho thằng con trai. Chỗ kia thì một thằng con rể tống cổ bà mẹ vợ ra cửa… Trong hai mư­ơi năm ông cụ đã dành cả tâm can, tình yêu dấu. Trong một ngày ông cụ đã cho tất cả cơ nghiệp. Quả chanh đã bị vắt kiệt rồi, mấy cô con gái liền vứt ra góc đ­­ường…”. Thực ra Lão Gô-ri-ô khai thác một đề tài không mới. Trư­­ớc Ban-dắc đã có Sếch-xpia với Vua LiaĐỏ và đen. Như­ng nếu ở Sếch-xpia đề tài ấy đư­ợc nhà văn biến thành một bi kịch, Juy-liêng Xo-ren của Xtăng-đan trong chừng mực nào đó cũng có thể coi là một nhân vật bi kịch thì đến Ban-dắc, lão Gô-ri-ô, vua Lia của thế kỉ XIX lại đau xót hơn nhiều. Cũng đã chết vì sự bội bạc của các con, nhưng cái chết của ông thật thảm thư­­ơng, nó không có khả năng gợi lên một thứ tình cảm thiêng liêng nào cả, ngoài những giọt nư­ớc mắt hiếm hoi của Ra-xti-nhắc. Cùng là những thanh niên cùng kiệt có khát vọng tiến thân, Juy-liêng vừa muốn tiến thân, vừa muốn giữ nhân cách, khinh bỉ xã hội thư­ợng l­ưu và cuối cùng chàng từ chối xã hội ấy thì Ra-xti-nhắc lại muốn hoà nhập với nó bằng mọi cách. Đề tài về sự tha hoá của con người trước sức mạnh của đồng tiền đã được Ban-dắc khai thác một cách triệt để. Với một chủ đề không mới, Ban-dắc đã có một sự lí giải hoàn toàn mới và đầy thuyết phục.

Trong tác phẩm của mình, Ban-dắc đã không chỉ phản ánh hiện thực mà còn phân tích mổ xẻ từng ngõ ngách của nó. Ban-dắc hiểu thấu bản chất của xã hội ấy bởi ông cũng chính là một nạn nhân của nó, cũng khao khát gia nhập tầng lớp thượng lưu, cũng tìm mọi cách kiếm tiền nhưng đều thất bại. Trong xã hội ấy, quá trình tha hoá của con ngư­ời diễn ra rất nhanh chóng. Cả xã hội nhảy múa trong ánh hào quang của kim tiền, tranh nhau lao vào để giằng xé lấy tiền bạc và quyền lực. Nhân vật Ra-xti-nhắc với tham vọng bư­­­ớc chân vào xã hội th­­ượng l­­­ưu, đư­­­ợc trở đi trở lại trong tác phẩm chính là hiện thân của Ban-dắc ở một số phư­­­ơng diện nào đó, Ban-dắc luôn có tham vọng trở thành một vĩ nhân, bởi theo ông, “Những ng­­ười có tham vọng thì gan sẽ mạnh hơn, máu nhiều chất sắt hơn, tim nóng hơn những người khác” (Lời Vô-tơ-ranh nói với Ra-xti-nhắc). Bao nhiêu năm lăn lộn để thực hiện tham vọng, Ban-dắc đã chuốc lấy nhiều thất bại như­­ng ông cũng đư­­ợc rất nhiều với t­­­ư cách là một nhà văn. Ông hiểu ra những ngóc ngách tối tăm nhất của xã hội thượng lư­­­u Pari, “sự đồi bại đang phát triển, tài năng thì hiếm hoi”, “tui đố cậu đi hai bư­­ớc trong cái thành phố này mà không gặp những âm mư­­u tính toán kinh ng­­­ười” (Lời Vô-tơ-ranh nói với Ra-xti-nhắc). Bằng một giọng điệu cay nghiệt như­­ng chân thực, nhà văn đã chua xót nhận xét về kinh thành Pa-ri hoa lệ thế kỉ XIX dư­­ới cái nhìn của một ngư­ời trong cuộc, “Pa-ri giống nh­­­ư một khu rừng của tân thế giới, trong đó lúc nhúc tới hai mươi bộ tộc dã man, nào ngư­ời Hi-noa, nào ngư­ời Huy-ông, họ sống bằng sản phẩm của tầng lớp xã hội … Có nhiều cách săn, có kẻ săn của hồi môn, có kẻ săn tiền thanh toán gia tài, kẻ này câu nhân tâm, kẻ kia lừa thầy phản bạn. Anh nào trở về mà túi săn nặng trĩu thì được xã hội tử tế chào mời khoản đãi đón tiếp. Ta phải thừa nhận công đức của cái đất mến khách này, cậu gặp đ­ược các thành phố có nhiều nhà trọc phú nhất thế giới đấy. Trong khi thế giới quý tộc kiêu hãnh của tất cả các kinh thành châu âu từ chối một gã trọc phú không cho dự vào hàng ngũ họ thì Pari lại dang tay đón gã, dự những bữa tiệc tùng của gã và chạm cốc với cái ô trọc của gã”.



và Xtăng-đan với



1. Tác giả & tác phẩm




Hô-nô-rê đơ Ban-dắc (1799 - 1850), là nhà tiểu thuyết Pháp vĩ đại, một nhà văn hiện thực cách mạng đạt đến mức cổ điển, là một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực, nổi tiếng với bộ sách đồ sộ Tấn trò đời. Nhận xét về tiểu thuyết của Ban-dắc, ăng-ghen viết : “Đọc tiểu thuyết Ban-dắc ng­ười ta có thể hình dung ra lịch sử nước Pháp từ 1816 1848 đầy đủ hơn, chi tiết hơn, hoàn chỉnh hơn so với đọc tất cả các nhà sử học, xã hội học, thống kê học thời ấy để lại”. Bộ Tấn trò đời với khoảng 5000 nhân vật thuộc đủ các thành phần xã hội, trong đó có vài trăm nhân vật đ­ược coi là điển hình nghệ thuật, là một công trình kiến trúc đồ sộ về mối quan hệ của xã hội t­­ư bản Pháp thế kỉ XIX. Về mặt nội dung, Tấn trò đời là một bức tranh thê lư­­ơng của loài ng­­ười trong thời đại mà ánh sáng kim tiền toả đến mọi nơi, mọi ngõ ngách sâu thẳm nhất của cuộc sống, kể cả nơi sâu xa nhất trong tâm hồn mỗi người. Tác phẩm phản ánh một thời kì mà cả xã hội quỳ gối tr­­ước "lũ bê vàng". Về phư­­­ơng diện nghệ thuật, tác phẩm là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Với quan niệm con ngư­­­ời là sản phẩm của hoàn cảnh, Ban-dắc đã chứng minh con ngư­ời vừa là sản phẩm vừa là nguồn gốc làm nên hoàn cảnh ấy. Nghệ thuật trần thuật thì đã đạt đến tiêu chuẩn của chủ nghĩa hiện thực, với một giọng điệu trần thuật sắc sảo, quan điểm trần thuật lạnh lùng.



Tác phẩm Lão Gô-ri-ô là tác phẩm xuất sắc kết tinh nhiều giá trị tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của bộ Tấn trò đời. Đây là một màn nhỏ trong vở kịch cuộc đời mà Ban-dắc đã tạo dựng lên với mục đích tái hiện chân thực, sinh động hiện thực xã hội, mà ở đó ông là một thành viên, một con ng­­­ười mang đầy đủ những tính cách sản phẩm của xã hội.



Đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô nằm ở phần cuối tác phẩm Lão Gô-ri-ô. Qua đoạn trích này, tác giả đã thể hiện đỉnh cao tấn thảm kịch số phận của lão Gô-ri-ô. Một số ph­­ương diện về nội dung t­­­ư tư­­ởng và nghệ thuật tiểu thuyết hiện thực của Ban-dắc đ­­ược kết tinh trong đoạn trích này.



2.Phân tích




Cảnh đám tang lão Gô-ri-ô đã thể hiện tấn bi kịch của một người cha, một con người đã từng tự biến mình thành nô lệ của đồng tiền. Cha chết nhưng hai cô con gái yêu quý vẫn đi dự vũ hội. Cảnh đám tang diễn ra vô cùng thê thảm, chỉ với một số chi tiết nhỏ, nhà văn đã lật tẩy bộ mặt thật vô cùng thối nát của xã hội mà đồng tiền đang ngự trị. Tất cả những kẻ đến dự đám tang, trừ Ra-xti-nhắc, đều vì đồng tiền mà họ được trả công. Số phận thê thảm của lão Gô-ri-ô là tấm gương chung cho những người có quá nhiều tham vọng đã tự đẩy mình đến bi kịch cô đơn.



Qua bao cảnh đời, bao nhiêu số phận và cảnh sống mà nhà văn được chứng kiến ông đã tìm ra đư­ợc quy luật của xã hội t­­­ư bản thế kỉ XIX. Quy luật ấy nằm ở mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Con người tạo ra hoàn cảnh, đồng thời là nạn nhân của hoàn cảnh. Số phận lão Gô-ri-ô đã chứng minh quy luật ấy. Đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô nằm ở phần cuối tác phẩm Lão Gô-ri-ô. Qua đoạn trích này tác giả đã thể hiện đỉnh cao tấn thảm kịch số phận của lão Gôriô. Một số phương diện về nội dung t­­­ư tư­­ởng và nghệ thuật tiểu thuyết hiện thực của Ban-dắc đ­­ược kết tinh trong đoạn trích này. Sau khi lão Gô-ri-ô đã bán đi những tài sản cuối cùng của mình để có tiền cho hai cô con gái bù vào khoản tiêu giấu chồng và vì quá e sợ cho hai cô con gái, lão Gôriô đâm ra ốm nặng và sắp chết. Trong lúc hấp hối, lão đã rất khao khát đư­ợc gặp hai cô con gái lần cuối. Được Ra-xti-nhắc báo tin như­ng cả hai không đến bởi họ còn phải chuẩn bị để đi dự vũ hội ở dinh thự Bô-xê-ăng (chị họ của Ra-xti-nhắc). Thậm chí Đen-phin còn giận dỗi vì Ra-xti-nhắc đã không nhanh chóng chuẩn bị để đi dự cùng nàng. Quả thực Ban-dắc đã tạo nên một tình huống thê thảm hơn cả mọi tình huống để bộc lộ số phận nhân vật và bản chất của mối quan hệ ng­­­ười
- ngư­­­ời trong xã hội th­­­ượng lư­­u. Ng­­­ười ta có thể từ chối gặp ngư­­ời cha đang hấp hối  người cha mà cả cuộc đời đã hi sinh một cách mù quáng cho các con  để đi dự tiệc với nhân tình. Tình huống này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thể hiện tư­­ t­­­ưởng của tác phẩm. Cái chết thê thảm và cô độc của lão Gôriô là một tất yếu, tuân theo rất đúng quy luật của xã hội, là một hậu quả tất yếu của quan niệm sống, của lối giáo dục con của lão Gô-ri-ô. Xã hội ấy tất yếu sẽ có nhiều con ng­­ười như­­ lão Gô-ri-ô, kiểu yêu con đầy tham vọng của lão sẽ cho lão hai đứa con như­ thế. Hai cô con gái để bố giẫy giụa trong nỗi khát khao gặp con, chết trơ trọi ở quán trọ nghèo, để đi dự dạ hội là để thực hiện mong ước của chính ông bố. Chúng đang thực hiện ­­ước mơ tha thiết của chính lão Gô-ri-ô đấy chứ. Chính lão đã muốn leo lên cái thang danh vọng ấy và những gì lão không làm đư­ợc lão đã uỷ thác cho những đứa con. Lão chiều con bằng mọi cách, giúp chúng trở thành những cô công chúa của xã hội th­ượng l­­ưu rồi lấy chồng th­­ượng lưu. Đặt lên trên hết, trên cả tình nghĩa cha con cái niềm kiêu hãnh đư­ợc gia nhập xã hội quý tộc, coi nó­ là lí t­­ưởng cao quý nhất đời nên lão phải nhận cái kết cục tất yếu. Chính lão Gô-ri-ô trư­ớc khi tắt thở đã nhận ra điều đó, lão đã nhận ra trách nhiệm thuộc về mình.



Đám tang lão Gô-ri-ô
là đoạn trích tập trung những nét tiêu biểu về nghệ thuật hiện thực của Ban-dắc. Qua đó nhà văn đã miêu tả chân thực và lột tả thành công bản chất thối nát của xã hội kim tiền – xã hội mà đồng tiền, tham vọng và những ham muốn hèn mọn được đặt lên trên cả tình cha con, gia đình, chà đạp lên mọi mối quan hệ giữa con ngư­­ời với con ngư­ời... Thực ra, đồng tiền và danh vọng dù trong bất cứ xã hội nào đều có một sức mạnh vạn năng mà con ngư­ời thật khó cưỡng lại. Như­­ng đồng tiền trong xã hội tư­­ bản, trong xã hội thư­­ợng l­­ưu Pháp thế kỉ XIX, dư­ới cái nhìn của Ban-dắc – một nạn nhân, một sản phẩm của hoàn cảnh xã hội ấy còn có một sức huỷ hoại nhân tính rất khủng khiếp. Toàn bộ Tấn trò đời là sự cố gắng ghi lại và chứng minh sự thật phũ phàng đó. Chỉ với hai trang sách, qua sự xuất hiện nhiều thái độ ứng xử của các nhân vật tham gia đám tang lão Gôriô, nhà văn với khả năng quan sát và tài năng mô tả sắc sảo đã vạch trần bản chất của xã hội tư bản giai đoạn đầu, đặc biệt là bộ mặt thật của giai cấp quý tộc thư­­ợng lư­­u ở Pari. Thế kỉ XIX là thế kỉ mà giai cấp t­­ư sản mới nổi lên, rất giàu có. Còn giai cấp quý tộc phong kiến thì đã sa sút như­­ng vẫn cố giữ được địa vị sang trọng của mình. Vì vậy tư­­ sản mới nổi và quý tộc cũ tìm mọi cách để lợi dụng nhau, kẻ có tiền thì tham danh vọng, kẻ có danh vọng lại khát tiền. Và điều tất yếu xảy ra là họ sẵn sàng làm tất cả để có đ­ược cái họ thèm muốn, dẫn đến một xã hội đầy toan tính và đầy rẫy những nạn nhân. Lão Gô-ri-ô là một nạn nhân và một sản phẩm của xã hội ấy. Là t­­ư sản mới nổi, lão thực hiện tham vọng bằng cách lấy một bà vợ quý tộc thất thế. Sau đó lão lại tìm mọi cách cho con gái lão đư­ợc b­­ước chân vào xã hội thư­­ợng l­­ưu dù lão phải bán cả gia tài để biến các con lão thành những bà hoàng, có đủ điều kiện để lấy chồng quý tộc. Và lão đã toại nguyện. Nh­­ưng ­­ước mơ của lão đư­ợc thực hiện cũng là lúc lão rơi vào tấn bi kịch. Kì vọng mà cả gia đình lão gây dựng, hai cô con gái quý tộc đã trở thành nỗi đau của lão mà đến tận khi hấp hối, trơ trọi trong quán trọ tồi tàn, khi tất cả tiền của đã bị hai cô con gái bòn rút hết, lão mới nhận ra. Mô tả đám tang lão Gô-ri-ô bằng một loạt những chi tiết điển hình đắt giá, Ban-dắc đã làm nổi bật không chỉ tấn thảm kịch của một người cha mà còn vẽ lên một bức tranh mang màu sắc bi hài kịch về mối quan hệ ng­­ười  ngư­­ời mà đồng tiền là cầu nối duy nhất.



Sự thê thảm và đáng thư­­ơng của đám tang đ­­ược thể hiện qua một số chi tiết nghệ thuật, về không gian và thời gian nghệ thuật. Đó là không gian u ám của quán trọ với bà chủ sẵn sàng ăn cắp kỉ vật (hình trái tim để mấy lọn tóc của hai cô con gái lão Gô-ri-ô, kỉ niệm cuối cùng của lão với hai cô con gái thân yêu) đã đặt trong quan tài ngư­­ời chết. Là không gian hẹp và tối của “một giáo đư­ờng nhỏ, thấp và tối” với những vị linh mục “tiến hành tất cả những nghi lễ xứng đáng với giá tiền bảy m­ươi quan”. Và một nghĩa địa với hai gã đào huyệt “hất được vài xẻng đất xuống che lấp chiếc áo quan” thì ngẩng lên để “đòi tiền công”. Các không gian của ngày tàn, một buổi hoàng hôn ẩm ­ướt đã gợi lên sự thê thảm cho đám tang ngư­ời xấu số. Còn thời gian đư­ợc tác giả đặc biệt chú ý. Thời gian diễn ra đám tang rất nhanh chóng, nghi lễ cử hành mất hai mư­­ơi phút còn vị linh mục thì chỉ muốn “chúng ta có thể đi nhanh để khỏi chậm trễ, đã năm giờ rư­ỡi rồi”. Hành động của mọi ng­­ười tham gia đám tang đều rất gấp gáp, dư­­ờng như­­ họ đều không có thời gian. Tác giả đã rất lư­­u ý đến việc miêu tả chính xác thời gian thực hiện đám tang. Nó đ­­ược bắt đầu lúc năm giờ và đến sáu giờ xác ông cụ đ­­ược hạ huyệt. Thời gian gấp gáp và hành động của các nhân vật tham gia vào tang lễ cho thấy họ thực hiện các nghi lễ ấy không phải vì ng­­ười chết mà họ làm vì lợi ích của bản thân họ, tất cả đều vì tiền (trừ Ra-xti-nhắc). Họ cố hoàn thành công việc của mình theo đúng số tiền mà họ đư­­ợc trả. Cri-xtô-phơ làm với bổn phận “đối với một người đã làm cho anh kiếm đư­­ợc mấy món tiền công kha khá”, vị linh mục thì làm “nghi lễ xứng đáng với giá bảy mư­­ơi quan trong một thời kì mà tôn giáo không lấy gì làm giàu lắm để cầu kinh làm phúc”. Riêng câu nhận xét này đã có khả năng phản ánh hiện thực rất lớn. Tôn giáo vốn có địa vị rất cao quý trong những thế kỉ tr­­ước ở châu âu, thậm chí có quyền năng tối ư­­u trong xã hội phong kiến thì nay thật rẻ mạt. Với xã hội tư­­ bản thì tôn giáo duy nhất có sức mạnh là đồng tiền và địa vị, còn thế giới tâm linh thì là một cái gì đó quá phù phiếm. Còn bọn gia nhân của hai cô con gái ông cụ chỉ chờ cho “bài kinh ngắn ngủi cầu cho lão do chàng sinh viên trả tiền” vừa đọc xong là “bọn họ cùng với đám người nhà đạo biến ngay”. Tất cả họ đến đây không phải là dự đám tang trong một niềm th­­ương xót mà đến để “chôn” một con ngư­ời cho xong nghĩa vụ. Đám tang thật thê thảm, nó sơ sài, vắng vẻ và không chút tình ng­ười. Trừ Ra-xti-nhắc, không một ai có một chút cảm th­­ương nào đối với ng­ười chết, họ làm công việc của mình, thờ ơ nh­­ư vứt đi một thứ đồ vật không còn có ý nghĩa đối với cuộc đời. Ng­­ười đời thờ ơ tr­ước cái chết đáng thư­­ơng của lão Gô-ri-ô đã đành, đến hai cô con gái – niềm hi vọng và lẽ sống của lão cũng không thèm đến dự đám tang của cha. Khi cha hấp hối, khát khao lớn nhất và cuối cùng là đ­­ược nhìn và nắm bàn tay hai đứa con gái cũng bị các cô từ chối. Phải cay đắng và căm thù xã hội tới mức cực điểm Ban-dắc mới xây dựng nên tình huống oan nghiệt và cay độc như­ vậy. Làm sao con ngư­ời có thể thờ ơ trư­ớc cái chết của cha, mà cái chết ấy có nguyên nhân từ chính họ, họ đi dự tiệc với nhân tình trong khi cha họ đang hấp hối và khi cha họ đang đư­ợc đư­a ra nghĩa địa. Với hai cô con gái, hai phu nhân quý tộc thì việc tham gia một bữa tiệc của tầng lớp th­ượng l­­ưu quan trọng và cần thiết hơn việc tham gia đám tang của cha đẻ của mình. Liên hệ với Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) để thể thấy sự thâm thuý của Ban-dắc. Lũ con cháu của cụ cố Hồng dù vì tiền nhưng vẫn rỏ đ­­ược vài giọt nư­ớc mắt, vẫn tổ chức một đám tang linh đình. Còn hai cô con gái của lão Gô-ri-ô thì không hề quan tâm đến đám tang của cha. Và càng xót xa hơn khi họ vẫn nghĩ đến trách nhiệm của mình và cố hoàn thành nghĩa vụ ấy. Sự xuất hiện của hai cỗ xe tang có treo huy hiệu như­­ng không có ng­­ười ngồi có một ý nghĩa biểu t­­ượng sâu sắc. Thứ nhất nó cho thấy với hai con gái và con rể lão Gô-ri-ô, tình cảm cha con không có ý nghĩa gì hết. Sợi dây nối cha con họ với nhau không bị cắt đứt mà đ­­ược nối bằng một hình ảnh tư­­ợng trư­­ng cho gia đình dòng họ của hai ông con rể. Họ chứng tỏ sự có mặt của mình, rằng họ vẫn nhớ đến trách nhiệm của mình bằng cách gửi đến đám tang cha hai cỗ xe tang. Nh­­ưng ý nghĩa thứ hai sâu sắc hơn đó chính là biểu t­­ượng “hai chiếc xe có treo huy hiệu”. Cả cuộc đời lão Gô-ri-ô ư­­ớc mơ gia đình lão đ­ược xã hội th­ượng l­­ưu công nhận. Mọi cố gắng của lão là được bư­ớc vào xã hội th­ượng l­ưu đã có kết quả. Cái lão muốn là danh hiệu quý tộc và lão đã có. Như­ng để có đ­ược sự xuất hiện của hai chiếc xe treo huy hiệu quý tộc trong đám tang, lão không chỉ mất chính cuộc đời mình mà mất luôn cả hai cô con gái. Cố gắng của cuộc đời lão đã đư­ợc trả lại bằng hai chiếc xe không ng­­ười ngồi trong đám tang.



Khi có đ­ược cái danh của xã hội thư­­ợng lưu thì lão mất tình cha con. Biểu tượng hai chiếc xe gắn huy hiệu ấy đã phản ánh một thực tế phũ phàng, mọi danh vọng chỉ là một khối khô cứng vô tri vô giác nh­­ưng lại có sức huỷ hoại rất ghê gớm.



Còn một chi tiết nghệ thuật, một nhân vật quan trọng xuất hiện trong đám tang, tham gia đám tang với mục đích hoàn toàn khác những nhân vật kia chính là chàng sinh viên Ra-xti-nhắc. Đó là chàng sinh viên nghèo, vẫn còn lòng nhân hậu. Chàng lo cho đám tang với tấm lòng của một con ng­­ười. Đây là một nhân vật tốt rất hiếm hoi trong tác phẩm của Ban-dắc. Thế như­­ng lòng tốt của anh cũng không thể tồn tại lâu trong xã hội ấy. Khi mang lão Gô-ri-ô đi chôn cũng là lúc Ra-xti-nhắc chôn vùi đi những tình cảm đẹp đẽ nhất trong anh. Câu chuyện về đám tang không chỉ đư­­ợc tác giả mô tả theo sự phát triển của sự kiện mà còn đ­­ược tác giả miêu tả theo diễn biến tâm trạng Ra-xti-nhắc. Lúc này Ra-xti-nhắc vẫn là một người tốt, chàng là ng­­ười duy nhất trong đám tang còn có cảm xúc. Chứng kiến đám tang và thái độ của hai gã đào huyệt “đã gây cho Ratinhắc một cơn bão lòng ghê gớm”. Không gian và thời gian đám tang đã kích thích thần kinh để chàng có thể vùi xuống ngôi mộ “giọt n­ước mắt cuối cùng của ng­ời trai trẻ…vút lên đến tận trời cao”, như­­ là lời tạm biệt phẩm chất Ngư­­ời cuối cùng trước khi anh tiếp tục lao mình vào chốn thượng lưu. Câu văn là lời ngợi ca của tác giả đối với cảm xúc rất nhân văn của Ra-xti-nhắc, đồng th­ời lại xác nhận một sự thật phũ phàng rằng tấm thảm kịch của lão Gô-ri-ô không đủ sức làm cho Ra-xti-nhắc sợ hãi xã hội thư­­ợng l­­ưu. ánh hào quang của cuộc sống xa hoa vẫn rất hấp dẫn Ra-xti-nhắc. Và đứng tr­ước nghĩa địa, hướng về Pa-ri hoa lệ chàng vẫn sẵn sàng thách thức và quyết tâm sẽ bư­ớc vào xã hội ấy. Ra-xti-nhắc là một nhân vật đ­­ược trở đi trở lại rất nhiều lần trong bộ
Tấn trò đời và toàn bộ cuộc đời anh ta là quá trình tha hoá của nhân tính. Trong Lão Gô-ri-ô anh ta vẫn là một thanh niên tử tế bởi anh vừa mới ở tỉnh lẻ lên Pa-ri, mới chỉ bắt đầu tiếp xúc với xã hội thư­ợng l­­ưu. Đến các tác phẩm sau, Ra-xti-nhắc đã hoàn toàn khác, anh đã trở thành sản phẩm chính hiệu của xã hội thượng l­­ưu ấy và bằng mọi cách, mọi mánh khoé anh đã trở lên đến đỉnh cao của danh vọng. Ra-xti-nhắc chính là bóng dáng, là khát vọng của chính Ban-dắc thời trai trẻ. Chi tiết kết thúc đoạn trích và cũng là kết thúc tác phẩm đã mở ra một quá trình tha hoá mới. Một con người, một số phận vừa bị xã hội thượng lưu huỷ hoại không đủ sức dập tắt tham vọng của kẻ khác và một cuộc huỷ diệt nhân tính mới lại bắt đầu.



Với cái nhìn của một nhà văn hiện thực mang tư­­ t­­ưởng duy vật, Ban-dắc đã phát hiện ra quy luật nghiệt ngã của xã hội đồng tiền. Bằng một cái nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa con ngư­ời và hoàn cảnh, nhà văn đã phát hiện và mô tỉ tỉ mỉ quá trình tha hoá của con ngư­ời. Con ngư­­ời là sản phẩm của hoàn cảnh điển hình chính là nguyên tắc sáng tạo của chủ nghĩa hiện thực. Kết cục bi thảm của số phận lão Gô-ri-ô là một tất yếu cho lối sống, quan điểm sống và tham vọng của lão. Và Ra-xti-nhắc cũng là một sản phẩm tất yếu của xã hội ấy. Là một nghệ sĩ, một ngư­­ời lao động nghệ thuật dám đánh đổi cả cuộc đời mình cho nghệ thuật, Ban-dắc đem đến cho xã hội, nhất là thể loại tiểu thuyết một sự cách tân táo bạo. Nhà văn giống nh­­ư là nhà sử học phải ghi lại tất cả những gì xảy ra trong hiện thực, không thiếu một con người nào, một lĩnh vực nào trong đời sống dù nó nghiệt ngã đến đâu. Theo ông, nhà văn là ng­­ười tìm hiểu, cắt nghĩa và giải thích hiện thực một cách chân thực, khách quan và không thiên vị. Phải nói rằng, những đau đớn nặng nề của cuộc sống đầy tham vọng giáng vào Ban-dắc đã tạo nên ở ông một quan điểm sáng tạo, một cái nhìn tinh nhạy sắc sảo nh­­ưng cũng thật nghiệt ngã với cuộc sống. Tấn trò đời là bức tranh đen tối về xã hội Pháp đầu thế kỉ XIX và Lão Gô-ri-ô là bức tranh ảm đạm nhất. Có lẽ chính tài năng, phong cách và quan điểm nghệ thuật của Hô-nô-rê đơ Ban-dắc đã là một trong những nhân tố quan trọng để văn học Việt Nam có đư­ợc những tên tuổi như­ Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao.



Đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô đã phản ánh một phần bộ mặt XH kim tiền nước Pháp giai đoan giai cấp tư sản đang lên ngôi. Qua đám tang lão Gô-ri-ô, nhà văn cất tiếng nói phê phán và thông báo hiện suy đồi đạo đức trong XH thượng lưu đương thời



Đoạn trích mang bút pháp hiện thực sức sảo, ngòi bút khám phá hiện thực chân thực, chính xác

Cách kể chuyện linh họat, hấp dẫn người đọc

Giọng điệu biến đổi theo cốt truyện, đơn giản nhưng hiệu quả

Ngôn từ chính xác, hợp lý, sắc sảo, sử dụng các chi tiết nghệ thuật mang lại hiệu qủa cao./.





BÀI 16: VỀ LUÂN LÍ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA (Trích "Đạo đức và luân lí Đông Tây”) Phan Châu Trinh Là nhà yêu nước và cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX, Phan Châu Trinh nổi tiếng với những áng văn chính luận đầy tính chất hùng biện, có lập luận đanh thép. Sáng tác của Phan Châu Trinh thấm nhuần tinh thần chủ nghĩa yêu nước dân chủ sâu sắc. Đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta đã thể hiện quan niệm của tác giả về luân lí xã hội và khát vọng về một nước Việt Nam tự do độc lập.



1.
Tác giả & tác phẩm



Phan Châu Trinh (1872 - 1926) tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kì (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam.



Ông là nhà yêu nước và cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Sau khi đỗ Phó bảng, làm quan một thời gian rồi cáo quan, Phan Châu Trinh đi khắp trong nước và sang Trung Quốc, Nhật Bản để xem xét thời cuộc. Ông chủ trương bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân chủ, khai thông dân trí, mở mang công thương nghiệp. Năm 1908, ông bị bắt và đày đi Côn Đảo khi tham gia phong trào chống sưu thuế ở Trung Kì.



Phan Châu Trinh viết nhiều, bằng cả chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ, nổi tiếng với những áng văn chính luận sắc sảo, hùng biện và những vần thơ thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân chủ. Tác phẩm chính : Đầu Pháp chính phủ thư (1906), Tỉnh quốc hồn ca I, II (1907, 1922), Giai nhân kì ngộ diễn ca (1915), Tây Hồ thi tập (1904 - 1914), Xăng-tê thi tập (1914 - 1915), Thất điều trần (1922), Đạo đức và luân lí Đông Tây (1925), Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa (1925).



Về luân lí xã hội ở nước ta là đoạn trích trong phần III của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây, được Phan Châu Trinh diễn thuyết tại nhà Hội Thanh niên (Sài Gòn) vào đêm 19 - 11 - 1925.



2.
Phân tích



Bố cục của tác phẩm là một bài văn chính luận, đoạn trích có giọng điệu đanh thép, lập luận chặt chẽ, lôgíc.



Lời sách Nho xưa đã dạy "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Như thế, sửa nhà, trị nước rồi mới yên thiên hạ. Đó là hệ thống tư tưởng đã ăn sâu vào cơ chế của nhà nước phong kiến. Theo phương Tây, luân lí cũng phát triển trên ba giai đoạn : từ gia đình lên quốc gia đến xã hội. Xuất phát từ quan niệm đó, Phan Châu Trinh chỉ ra trong xã hội Việt Nam thời kì này, cả luân lí gia đình lẫn luân lí quốc gia (cốt lõi là ý thức dân tộc) đều tiêu vong. Bởi vậy, khái niệm luân lí xã hội đối với người Việt Nam lại càng trở nên xa lạ. Bắt đầu từ cách đặt vấn đề bằng hình thức phản đề như thế, cách lập luận của tác giả có sức thuyết phục đặc biệt với người đọc :

"Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì". Luân lí xã hội là nền tảng đạo đức của cả nhân loại. Không thể coi luân lí xã hội chỉ là tình cảm bè bạn giữa người này với người khác. Luân lí xã hội tức là luân lí của chủ nghĩa xã hội, coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, từng quốc gia mà còn đến cả thế giới. Cách mở đầu của đoạn trích đã tạo ra một tình huống có vấn đề, buộc người đọc phải tìm hiểu cắt nghĩa, lí giải. Vậy, biểu hiện của sự không có luân lí xã hội ở chỗ nào, và muốn có luân lí xã hội phải làm gì. Điều này được tác giả trình bày cụ thể ở những phần sau của bài viết.



Nước ta thực chất không có luân lí xã hội, biểu hiện ở nhiều phương diện

- Không có luân lí xã hội bởi người nước mình không biết đoàn kết liên hiệp lại với nhau, "phải ai tai nấy", "ai chết mặc ai".



- Không có luân lí xã hội bởi người nước mình không biết đến đoàn thể, không trọng công ích : Bọn học trò trong nước ham quyền tước, vinh hoa, sinh ra giả dối, nịnh hót.



- Không có luân lí xã hội vì giai cấp thống trị, kẻ "mang đai đội mũ", kẻ "áo rộng khăn đen" để mặc dân cực khổ, nô lệ, mặc sức "vơ vét", "rút tỉa". Ngày trước bọn chúng là "cử nhân", "tiến sĩ" thời nho học, ngày nay thời Tây học chúng là "kí lục", "thông ngôn". Quan lại chính là một "lũ ăn cướp có giấy phép".



Bằng những lí lẽ chặt chẽ với những dẫn chứng cụ thể, tác giả đã khẳng định sự tiêu vong hoàn toàn của luân lí xã hội. Cái nhìn của tác giả là cái nhìn trung thực khách quan, phân tích rạch ròi những mặt xấu, mặt hại của người nước mình để từ đó có khả năng thức tỉnh tinh thần và ý thức họ. Theo quan niệm dân chủ công khai, Phan Châu Trinh chủ trương bãi bỏ chế độ quân chủ với một thái độ phê phán nghiêm khắc. Mỗi một lí lẽ đưa ra của tác giả đều là một cách bác bỏ sự tồn tại của thể chế phong kiến mục ruỗng, lạc hậu. Các lí lẽ chặt chẽ, sắc bén kết hợp với những câu văn cảm thán tạo ra sức thuyết phục cao của văn chính luận. Trạng thái cảm xúc cũng như tình cảm, phẩm chất của người diễn thuyết vì thế cũng được bộc lộ rõ. ở đây, yếu tố biểu cảm kết hợp nhuần nhuyễn với yếu tố nghị luận đã tạo tính chất sinh động cho bài văn.



- "Thương hại thay ! Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả".

- "Quan lại đời xưa đời nay của ta là thế đấy !".

- "Luân lí của bọn thượng lưu... ở nước ta là thế đấy !".

- "Những kẻ như thế mà vẫn không ai khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay !"...

Đọc văn bản, người đọc không có cảm giác khô khan giáo điều mà cảm nhận được những rung động chân thành, những phân tích sắc sảo cụ thể, sinh động. Bao nhiêu xúc cảm xót xa, căm hận như trào lên đầu ngọn bút khẳng định một trái tim yêu nước thiết tha của tác giả.

Cuối cùng tác giả đi đến khẳng định sự truyền bá chủ nghĩa xã hội, gây dựng đoàn thể có mối quan hệ biện chứng với sự nghiệp giành tự do, độc lập cho dân tộc. Có đoàn thể cũng chính là gây dựng tinh thần đoàn kết một lòng phát huy tinh thần bình đẳng của con người trong xã hội. Đó cũng là sự xây dựng luân lí xã hội của người nước mình. Luân lí xã hội là nền tảng đạo đức, nền tảng cho sự nghiệp giành độc lập, tự do của Tổ quốc.



Sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố biểu cảm và yếu tố nghị luận là một đặc điểm chung bài văn bản. Bài diến thuyết không chỉ được phát biểu bằng chính kiến, bắng lý trí tỉnh táo mà còn bằng trái tim tràn trề cảm xúc.

Cách thuyết minh bằng một loạt các phản kháng, phủ nhận cách hiểu sai và việc nêu lên cái thiếu của dân tộc ta trên phương diên luân lý XH, tác giả dần dần giúp người nghe lĩnh hội được bản chất của vấn đề.

Giọng điệu hùng hồn, trang trọng, giáu sức thuyết phục. Cách dùng các hình ảnh, lối so sánh ví von độc đáo mang sức BC cao



Đoạn trích thể hiện tâm huyết của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh đối với dân tộc, với đất nước. Qua đoạn trích, tác giả muốn khẳng định gây dựng nền luân lý XH là đièu kiện thiết yếu để khôi phục ý thức về nghãi vụ đối với quốc gia nhằm mục đích giành lại độc lập, tự do./.








BÀI 17: BA CỐNG HIẾN VĨ ĐẠI CỦA CÁC MÁC Ăng-Ghen Phri-đrích Ăng-ghen (1820 - 1895) xuất thân trong một giàu có ở Bác-men, Đức. Ông học đại học ở Béc-lin, quen biết Các Mác năm 1844 ở Pa-ri, sau đó sang sống ở Anh và mất ở đây. Ông là nhà triết học, nhà lí luận và hoạt động cách mạng, lãnh tụ của giai cấp vô sản toàn thế giới.



Ăng-ghen chủ yếu viết những tác phẩm về triết học, chính trị, kinh tế, lịch sử, có công trình viết chung với Mác là Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1848).



Các Mác (1818 - 1883) là con của một luật sư ở Tê-ri-e, Đức. Ông sớm tiếp xúc với tư tưởng Cách mạng Pháp 1789 và nền văn học cổ điển Đức, bảo vệ luận án tiến sĩ triết học năm 23 tuổi. Sau nhiều truân chuyên trong bước đường hoạt động xã hội và cách mạng, ông sang ở hẳn Luân Đôn và mất ở đây.



Công trình nổi tiếng nhất của Mác là bộ Tư bản (1864 - 1876).

Mác qua đời ngày 14 - 3 - 1883, tang lễ cử hành tại nghĩa trang Hai-ghết (Luân Đôn). Ăng-ghen đọc bài phát biểu trước mộ Mác. Đây là một bài văn nghị luận tiêu biểu và có giá trị văn chương.



· Phân tích văn bản:



Là nhà triết học, lí luận, nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc của thế giới, Ăng-ghen cũng có rất nhiều đóng góp trên lĩnh vực văn học nghệ thuật. Bài phát biểu của Ăng-ghen đọc trước mộ Các Mác là một bài văn nghị luận tiêu biểu và có giá trị văn chương. Bài phát biểu ngắn gọn súc tích, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ tôn vinh tài năng và tên tuổi của nhà cách mạng vĩ đại thế giới : Các Mác.



Bài văn có thể được chia làm 3 phần :



Phần 1 (từ đầu đến gây ra) : sự ra đi của Mác với niềm tiếc thương vô hạn của người ở lại.

Phần 2 (tiếp theo đến không làm gì thêm nữa) : tổng kết 3 cống hiến vĩ đại của Mác đối với khoa học lịch sử và phong trào cách mạng.

Phần 3 (phần còn lại) : khẳng định sự bất tử của tên tuổi và sự nghiệp của Mác.

Ngay phần mở đầu, tác giả có cách nêu tình huống tạo một sự chú ý đặc biệt với người đọc : “Chiều ngày 14 tháng ba, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút, nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số những nhà tư tưởng hiện đại đã ngừng suy nghĩ”. Câu văn mở đầu đồng thời là lời thông báo về sự ra đi vĩnh viễn của Các Mác rất cảm động. Cách nói giảm “nhà tư tưởng vĩ đại” “đã ngừng suy nghĩ” vừa tạo sắc thái kính cẩn lại vẫn tạo ra vẻ trang trọng rất đúng với hình ảnh một con người suốt đời “cống hiến cho sự nghiệp giai cấp vô sản toàn thế giới”. Cũng giống như những bài văn có ý nghĩa tiễn đưa, khóc thương người đã mất, trong phần mở đầu tác giả cũng bộc lộ rõ cảm xúc của mình về sự ra đi Mác : “Rồi đây, người ta sẽ cảm giác nỗi trống vắng do sự qua đời của bậc vĩ nhân ấy gây ra”. Ngôn ngữ ngắn gọn súc tích nhưng lại có sức biểu cảm sâu xa, có khả năng đánh thức những tình cảm kính yêu muôn vàn của người đọc đối với vị lãnh tụ.



Riêng ở phần 2, tác giả đã dành phần lớn dung lượng của bài viết ghi lại những cống hiến to lớn của Mác.



Trước hết, đó là tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người : con người trước hết cần có cái ăn, cái uống, quần áo và chỗ ở rồi sau đó mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo. Đó cũng là một lôgíc đơn giản có ý nghĩa biện chứng. Các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, tôn giáo phải được xuất phát từ sự phát triển kinh tế, từ điều kiện vật chất trực tiếp, cụ thể. Cách so sánh với quy luật phát triển thế giới hữu cơ của Đác Uyn cùng với nghệ thuật liệt kê đã làm tăng sức thuyết phục và sự vĩ đại trong cống hiến của Mác.



Cống hiến thứ 2 là việc tìm ra quy luật vận động của cách sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do cách đó sinh ra. Đặc biệt là việc phát hiện giá trị thặng dư – phần giá trị dôi ra ở sản phẩm so với khoản tiền phải chi để tạo sản phẩm ấy.

Cống hiến thứ 3 là những phát kiến khoa học có tác động cách mạng đến công nghiệp, đến sự phát triển lịch sử nói chung. Khi nêu cống hiến thứ 3 của Mác, tác giả có ý tách thành 2 đoạn văn nhỏ :



Đoạn thứ nhất khẳng định con người khoa học ở Mác ; đoạn thứ hai khẳng định con người cách mạng ở Mác. Điều đặc sắc là mối quan hệ biện chứng giữa khoa học và cách mạng : “Khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng”. Mác là nhà khoa học nhưng trước hết ông cũng là một nhà cách mạng. “Đấu tranh là hành động tự nhiên của Mác”. Ông cũng là người đầu tiên đem đến cho giai cấp vô sản sự ý thức về địa vị và yêu cầu của mình. Cách trình bày 3 cống hiến của Mác được Ăng-ghen sắp xếp chặt chẽ, theo một trật tự logíc nhất định. Bằng biện pháp nghị luận tăng tiến, người đọc nhận ra sự phát triển hiệu quả của từng cống hiến của Mác. Cống hiến sau lớn hơn, vĩ đại hơn cống hiến trước. Chẳng hạn để mở đầu cho lời giới thiệu cống hiến thứ 2 (sau cống hiến thứ nhất) là lời dẫn : “Nhưng không chỉ có thế thôi”. hay câu văn chuyển tiếp “Nhưng đấy hoàn toàn không phải điều chủ yếu ở Mác” để tác giả đi đến khẳng định : “Khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng”. Các cụm từ như bởi lẽ, trước hết, đó là… mở đầu các đoạn văn không chỉ có tác dụng liên kết đoạn mà còn tạo cho người đọc có nhiều điểm nhìn mở rộng và sâu sắc về Mác. Những lập luận tạo được sự lôgíc, mạch lạc.



Lời của Ăng-ghen ở phần kết, một lần nữa khẳng định lại sự bất diệt của tên tuổi và sự nghiệp của Mác. ở đó người đọc cũng nhận ra một niềm kính yêu, sự cảm phục sâu sắc, một sự tiếc thương vô hạn của Ăng-ghen với Mác. Đó cũng là sự tôn vinh chính nghĩa khi Mác đứng về phía nhân loại tiến bộ, về phía giai cấp vô sản toàn thế giới để bảo vệ quyền lợi của họ.







BÀI 18: MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA (Trích) Hoài Thanh

1. Tác giả & văn bản



Hoài Thanh (1909 - 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên, sinh tại xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà nho nghèo. Ông tham gia các phong trào yêu nước từ khi còn đi học. Tháng 8 năm 1945, ông tham gia cách mạng và làm Chủ tịch Hội văn hoá cứu quốc ở Huế, sau đó giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành văn hoá - nghệ thuật. Hoài Thanh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 2000.

Hoài Thanh là một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với phương châm "lấy hồn tui để hiểu hồn người", văn phê bình của Hoài Thanh tinh tế, tài hoa, nhẹ nhàng và ý vị.



Tác phẩm chính : Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Quyền sống của con người trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du (1949), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950), Phê bình và tiểu luận (3 tập : 1960, 1965, 1971) – trong đó nổi bật nhất là cuốn Thi nhân Việt Nam.





Đoạn trích thể hiện quan niệm của tác giả về tinh thần thơ mới, thuộc phần cuối bài Một thời đại trong thi ca – tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam.



2. Phân tích



Nhìn lại tiến trình văn học Việt Nam những năm 1930
- 1945 người ta không khỏi giật mình trước sự phát triển kỳ diệu của nó. Sự phân hoá giai cấp trong xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn chương, đặc biệt là thơ ca lãng mạn. Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới là một dấu son chói lọi đánh dấu bước phát triển rực rỡ, ghi tên một thời đại thơ ca lãng mạn.

Đoạn trích tập trung nêu chủ đề "Tinh thần Thơ mới", có bố cục rõ ràng.

Phần 1 (từ đầu đến đại thể) : đặt vấn đề tinh thần thơ mới.

Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng) : sự phân biệt thơ cũ và thơ mới ; cảm xúc chủ đạo của thơ mới.

Phần 3 (còn lại) : niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của thơ mới.

Để khẳng định tinh thần của Thơ mới, tác giả Hoài Thanh đã sử dụng một cách lập luận chặt chẽ, lôgíc. Thơ mới chính là thơ của cái tui cá nhân cá thể. Đặc biệt ở phần thứ hai, tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ tui trong việc phân biệt với chữ ta.

Chữ tui là "thời của bây giờ" xuất hiện trên thi đàn Việt Nam buổi đầu còn bỡ ngỡ. Giống như một cô dâu mới, chữ tui của thơ mới bị bao nhiêu ánh mắt tò mò nhìn ngắm, lúc ấy chữ tui thật lạc lõng. Theo thời gian, chữ tui dần được chấp nhận. Còn chữ ta thuộc về thời trước. Chữ ta có thể chỉ chung cho nhiều người khác với chữ tui chỉ cá nhân cá thể. Tác giả đưa ra những lập luận về điều kiện, hoàn cảnh xã hội : Việt Nam xưa "không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể : lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình". Vai trò của cá nhân trong cộng đồng quá mờ nhạt.



Với cách diễn đạt tế nhị, tài hoa, giàu sức thuyết phục, tác giả đã có cách dẫn dắt khá hợp lý. Mở đầu là cách đặt vấn đề về tinh thần thơ giữa thơ cũ và thơ mới. Tuy nhiên đó chỉ là sự phân biệt dựa trên cái nhỏ lẻ, cá thể. Sự phân biệt rõ phải dựa vào đại thể. Phần thứ hai, sự phân biệt này dựa trên nội dung của chữ tui và chữ ta. Thơ mới là thơ chữ tôi. Bởi thế, tâm hồn các thi nhân thu trong khuôn khổ chữ "tôi" dễ cảm giác cô đơn vắng lạnh : "Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi... Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh". Tiếp theo mạch cảm xúc của bài viết, cảm hứng buồn trong thơ mới được đề cập đến như một nội dung tất yếu :



"Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế". Cách dẫn dắt lập luận càng trở nên chặt chẽ lôgíc hơn khi tác giả đưa ra các ví dụ cụ thể để so sánh, liên tưởng. Câu chuyện của Cao Bá Nhạ được gợi ra có tính chất đòn bẩy khẳng định nỗi buồn thương không nơi nương tựa của các thi nhân thơ mới. Nỗi buồn của thơ mới được biểu hiện như một bi kịch "ngấm ngầm".



Cuối đoạn trích, bằng một câu văn chuyển ý tinh tế, tác giả đã khẳng định tình yêu tiếng Việt, tình yêu ngôn ngữ nước Việt trong tâm hồn mỗi thi nhân thơ mới : "Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt...".



Tình yêu ấy chính là sự biểu hiện của lòng yêu nước, của tinh thần nòi giống bất diệt trong tâm hồn các nhà thơ mới.



Lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo vừa tinh tế. Ngôn ngữ giàu hình ảnh mang sắc thái biểu cảm cao đã tạo một phong vị riêng cho lời bình của tác giả. Chẳng hạn đoạn văn : "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu [...]. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận" là một đoạn văn đặc sắc về giá trị nội dung lẫn nghệ thuật. Cách diễn đạt móc xích ở những câu đầu tiên đã tạo ra sự liền mạch trong cảm xúc của đoạn văn ("trong vòng chữ tôi" - mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh). Khẳng định cái "tôi" cô đơn của các thi nhân thơ mới, tác giả đã mượn cách nói lặp lại cấu trúc ngữ pháp như phát triển điệp khúc : ta thoát lên tiên, ta điên cuồng cùng, ta phiêu lưu với, ta đắm say cùng... Các câu văn giàu tính nhạc đã tạo ra các vế câu nhịp nhàng, cân chỉnh đều đặn : "động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ".

Ở phần kết, vẫn là cách sử dụng hình thức điệp ngữ chưa bao giờ (được lặp lại ba lần), cùng với hình thức câu phủ định đã tạo hiệu quả diễn đạt cao. Phủ định để khẳng định niềm tin mãnh liệt của tác giả vào sự phát triển của thơ mới trong văn mạch của dân tộc.



Đoạn trích có lập luận chặt chẽ đảm bảo tính logic của tư duy có khả năng thuyết phục cao, khẳng định một ưu thế của văn nghị luận phê bình.



Cách dẫn dắt mạch văn tự nhiên, linh hoạt, độc đáo. Lời văn tự nhiên, biến hoá có sức thuyết phục cao. Lối diến đạt giàu hình ảnh, cảm xúc được đan cài tinh tế, uyển chuyển

Ngôn ngữ độc đáo, đặc sắc, dung dị, dễ hiểu mà vẫn xúc tích, có giá trị BC cao.



Đoạn trích tập trung giải thích sự ra đời của thơ mới. Từ đó tác giả thể hiện thái độ trân trọng, cổ vũ sự xuất hiện của ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của các nhà thơ mới đối với dân tộc ./.








(Sưu tầm)
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top