Amot

New Member

Download miễn phí Pháp luật kinh doanh bảo hiểm trước yêu cầu sửa đổi, bổ sung để phù hợp với cam kết WTO và thực tiễn





Vấn đề trục lợi bảo hiểm xuất hiện ngày càng nhiều tại Việt Nam. Trục lợi bảo hiểm có nguyên do từ người tham gia bảo hiểm, cũng có thể từ đại lý bảo hiểm, kể cả trường hợp có sự cấu kết từ người điều hành doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm có vốn thuộc sở hữu nhà nước. Theo thống kê chưa đầy đủ thì có hơn 80% các trường hợp trục lợi bảo hiểm là do có sự tiếp tay từ nội bộ doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này một mặt gây hại cho chính doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, mặt khác gây ra tình trạng lũng đoạn trên thị trường, xáo trộn trật tự quản lý nhà nước cũng như làm thay đổi bản chất của hoạt động kinh doanh “rủi ro” này[22]. Những quy định hiện hành về xử lý đối với trục lợi bảo hiểm còn quá đơn giản.[23] Đối tượng trục lợi bảo hiểm hết sức đa dạng. Trong bối cảnh thị trường ngày càng phong phú và đa dạng các sản phẩm bảo hiểm cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm thì việc chấn chỉnh điều này càng cần được xem xét một cách thấu đáo để có thể kịp thời ngăn chặn trước khi không thể kiểm soát được.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ có điểm gì đặc biệt không. Nói cách khác, chưa có cơ chế điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm đối với thực thể di chuyển trong trường hợp phát sinh quan hệ hay có tranh chấp xảy ra. Trong khi đó đặc tính “di chuyển” không ổn định của thực thể tiêu dùng ngoài lãnh thổ sẽ làm nảy sinh các vấn đề khác biệt cần được xác định như: đối tượng bảo hiểm (tài sản, trách nhiệm, con người), phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm.. Các nội dung này sẽ thay đổi một khi họ dịch chuyển từ nơi này đến nơi khác.
3. Việt Nam cam kết đối xử quốc gia và không hạn chế tiếp cận thị trường đối với cách cung cấp qua biên giới đối với dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; dịch vụ tái bảo hiểm; dịch vụ bảo hiểm vận tải quốc tế (gồm vận tải biển quốc tế, hàng không thương mại quốc tế, hàng hóa đang vận chuyển quá cảnh quốc tế); dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm; dịch vụ tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường.
Theo cam kết này, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam. Như vậy, cam kết này mở ra nhiều cơ hội cho các dự án hay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lựa chọn doanh nghiệp để thiết lập quan hệ bảo hiểm thay vì chỉ được phép giao dịch với doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Điều này đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến loại hình bảo hiểm phi nhân thọ mà hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đang nắm giữ thị phần lớn.
Tuy nhiên, cam kết này làm phát sinh mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm được ghi nhận tại Luật KDBH, theo đó “tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam”[2]. Thậm chí, nguyên tắc này còn được tái khẳng định bởi văn bản dưới luật ngay cả khi cam kết của Việt Nam với WTO đã có hiệu lực, theo đó “tổ chức, cá nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm có quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm và chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam”[3].
Mặc dù, mâu thuẫn này được giải quyết bởi nguyên tắc “hiệu lực của luật quốc tế cao hơn hiệu lực của luật quốc gia” (hay “ưu tiên áp dụng luật quốc tế trước luật quốc gia”) và được ghi nhận ngay trong Luật KDBH[4] cũng như Nghị quyết số 71/2006/QH11[5], tuy nhiên phần lớn các quy phạm luật quốc tế là cần được nội luật hóa, vì chỉ một số ít các cam kết quốc tế là được quy định “đủ rõ, chi tiết” mới có thể được áp dụng trực tiếp. Đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Nghị quyết số 71/2006/QH11 chỉ mới nhận thấy các cam kết gia nhập WTO “đủ rõ, chi tiết” để không áp dụng một quy định của Luật KDBH, theo đó “Trong trường hợp tái bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm phải tái bảo hiểm một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm trong nước theo quy định của Chính phủ”[6]. Nhưng mặt khác Quốc hội cũng đã không loại trừ rằng còn có các cam kết khác “đủ rõ, chi tiết”, nên cũng còn giao cho Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trách nhiệm rà soát các cam kết được quy định đủ rõ, chi tiết nhưng chưa được ghi trong Phụ lục đính kèm Nghị quyết này để áp dụng trực tiếp và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội[7]. Các cam kết khác không được quy định “đủ rõ, chi tiết” cần được nội luật hóa thông qua việc các cơ quan này “rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung hay ban hành mới; sửa đổi, bổ sung hay ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phù hợp với cam kết của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới”[8].
4. Đối với cách hiện diện thương mại, Việt Nam cam kết đối xử quốc gia và không hạn chế tiếp cận thị trường, ngoại trừ việc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không được kinh doanh dịch vụ bảo hiểm bắt buộc, bao gồm bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm các công trình dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường. Tuy nhiên, xét về mặt thời gian đây chỉ là một hạn chế có tính chất “hoãn binh”, vì sẽ được bãi bỏ vào ngày 01/01/2008. Như vậy, sau thời điểm này, thị trường bảo hiểm bắt buộc hoàn toàn được mở cửa đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và sau 5 năm từ khi gia nhập, doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài mới được thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ, “căn cứ vào các quy định quản lý thận trọng”[9]. Theo ghi nhận tại Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (sau đây: Ban công tác), “các luật lệ và quy định cần có để thực thi cam kết này sẽ được xây dựng với mục tiêu thúc đẩy đầu tư và tạo ra các cơ hội thương mại có ý nghĩa, bảo đảm phát triển bền vững thị trường bảo hiểm Việt Nam, bảo vệ lợi ích chính đáng của những người ký kết hợp đồng bảo hiểm và sự an toàn, lành mạnh của thị trường bảo hiểm Việt Nam... việc quản lý những chi nhánh này sẽ được thực hiện phù hợp với các tiêu chuẩn và nguyên tắc trong ngành bảo hiểm được quốc tế thừa nhận của Hiệp hội Các nhà quản lý Bảo hiểm Quốc tế (IAIS)”[10].
Chi nhánh được cấp phép thành lập, với tư cách là đơn vị phụ thuộc có chức năng kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, đương nhiên được phép kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cam kết đối với cách hiện diện thương mại.
Cam kết này làm cho các hạn chế về nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài không còn phù hợp,[11] bởi vì các doanh nghiệp loại này được hưởng quy chế đối xử quốc gia.[12]
Cam kết này cũng còn làm cho các quy định của Luật KDBH về hình thức hoạt động tại Việt Nam của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không còn phù hợp, vì Luật này chỉ mới cho phép doanh nghiệp bảo biểm nước ngoài được đặt văn phòng thay mặt tại Việt Nam[13]. Các quy định liên quan của Luật này và các quy định chi tiết thi hành các điều khoản đó[14] theo đó cũng cần được sửa đổi, bổ sung trước khi thời hạn 5 năm kết thúc.
5. Việt Nam chưa cam kết hiện diện thể nhân trừ các cam kết chung được áp dụng cả đối với dịch vụ bảo hiểm. Theo cam kết chung, Việt Nam cho phép nhập cảnh và lưu trú tạm thời đối với các thể nhân là người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, nhân sự khác, người chào bán dịch vụ, người chịu trách nhiệm về thành lập hiện diện thương mại, cũng như nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng....
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Pháp luật về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và thực tiễn thực hiện tại các doanh nghiệp khí hóa lỏng Luận văn Kinh tế 1
D Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng bằng pháp luật hình sự một số nước trên thế giới – kinh nghiệm cho Việt nam Luận văn Luật 0
D Pháp luật về xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực kinh doanh thương mại ở Việt Nam Luận văn Luật 0
D Pháp luật về ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 2
H pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án kinh doanh bất động sản Luận văn Luật 0
D Điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành theo pháp luật việt nam hiện nay Luận văn Luật 0
D Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ công chứng tại VPCC hưng vượng Luận văn Kinh tế 1
D Các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế với việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Luận văn Luật 1
D Bài tập CCHN Kế toán APC môn Pháp luật về Kinh tế và Luật Doanh nghiệp Luận văn Luật 0
H Những thay đôỉ cơ bản của pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại khi Việt N Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top