lam_nguyen450

New Member
Download Luận văn Những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại ngân hàng công thương chi nhánh An Giang

Download miễn phí Luận văn Những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại ngân hàng công thương chi nhánh An Giang





Hiện nay, ngành thủy sản mà đặc biệt là chăn nuôi cá tra-basa (cá tra-basa: một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng quý giá;) là một trong những thế mạnh của ĐBSCL nói chung, của tỉnh An Giang nói riêng và được các nước trên thế giới biết đến, nhất là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam vừa gia nhập WTO thì việc mở rộng phát triển sản lượng cá tra-basa cả về lượng và về chất là rất cần thiết để đáp ứng cho nhu cầu thực phẩm trong nước và xuất khẩu. Để làm được điều này cần có sự phối hợp tốt giữa 04 nhà, trong đó nhà nông là lực lượng nồng cốt trong việc phát triển ngành nghề này, còn ngân hàng là một trong các nhà doanh nghiệp hỗ trợ về vốn tốt nhất cho nhà nông vì đa số những người chăn nuôi cá tra-basa đều thiếu vốn cho một chu kỳ nuôi. Tuy nhiên, một mặt mở rộng tín dụng cho những người chăn nuôi cá tra-basa, mặt khác phải đảm bảo chất lượng tín dụng bằng những biện pháp giảm thiểu rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa, hạn chế phát sinh NQH đến mức thấp nhất.



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung:

n
46%
82,000 tấn
45%
Trong đó :
+ Nuôi cá tra-basa
25,000 tấn
21%
97,000 tấn
81%
72,000 tấn
50%
Bảng 4 : Sản lượng chế biến, xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
+ Sản lượng chế biến và xuất khẩu cá tra-basa
54,900 tấn
104.000 tấn
125,000 tấn
+ Kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa
123 triệu USD
255 triệu USD
335 triệu USD
(Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang)
Chỉ tiêu
2006 so với 2005
2007 so với 2005
2007 so với 2006
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
Chênh lệch
%
+ Sản lượng cá tra-basa chế biến và xuất khẩu
49,100 tấn
89%
70,100 tấn
128%
21,000 tấn
20%
+ Kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa
132 triệuUSD
107%
212 triệuUSD
172%
80 triệuUSD
31%
(Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang)
Trong năm 2007, tỉnh tiếp tục quy hoạch lại các vùng sản xuất nguyên liệu chủ yếu, chủ động trong khâu sản xuất con giống, mở rộng thị trường xuất khẩu, sản phẩm chế biến đa dạng và được khách hàng nhiều nước ưa chuộng. Sản xuất ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến xuất khẩu được cải thiện đáng kể dần dần khắc phục được những rào cản kỹ thuật. Bên cạnh đó, việc ứng dụng các thành tựu kỹ thuật vào sản xuất, quan tâm đầu tư con giống, thức ăn, phòng trừ dịch bệnh và bảo vệ môi trường đã phần nào tạo được nguồn nguyên liệu sạch, không sử dụng hóa chất giúp cho uy tín của thương hiệu cá tra-basa Việt Nam ngày càng được nâng lên. Từ đó ngày càng mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu với các sản phẩm cá tra-basa đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và được tiêu thụ tốt ở tất cả các thị trường quốc tế đã làm nên thắng lợi của ngành chăn nuôi cá tra-basa trong năm 2007. Cụ thể là sản lượng chế biến và xuất khẩu cá tra-basa giai đoạn 2005 – 2007 tăng 128% về sản lượng (70.100 tấn) và 172% về giá trị (212 triệu USD) (bảng 4).
Qua việc phân tích những số liệu trên cùng với thực tế phát triển ngành chăn nuôi cá tra-basa từ năm 2005 đến năm 2007 cho thấy ngành chăn nuôi cá tra-basa đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc, tuy nhiên cũng gặp không ít những khó khăn như :
- Thị trường xuất khẩu chưa thật ổn định do gặp khó khăn trong việc đối phó với những rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu thủy sản.
- Thời tiết diễn ra bất thường : nắng nóng, khô hạn, thời tiết lạnh, nguồn nước bị ô nhiễm,…làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng, gây thiệt hại không nhỏ cho đời sống nông – ngư dân.
- Người chăn nuôi cá tra-basa có thói quen sản xuất tự phát, chưa tuân thủ quy hoạch và kế hoạch phát triển NTTS của ngành, tỉnh,...
Những khó khăn trên xảy ra đối với người chăn nuôi cá tra-basa là do nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra, từ đó cũng gây ra không ít khó khăn và rủi ro trong hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa.
2.4 THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NHCT CHI NHÁNH AN GIANG
2.4.1 Một số đặc điểm chủ yếu của hộ chăn nuôi cá tra-basa
Hộ chăn nuôi cá tra-basa có những đặc điểm chủ yếu sau :
- Chăn nuôi tập trung thành vùng : Vùng chăn nuôi cá tra-basa tập trung ở những vùng đất ven sông Hậu và sông Tiền hay trên các tuyến sông lớn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng tháp, Cần thơ, Bến tre,…của khu vực ĐBSCL.
- Chăn nuôi theo tính chất cha truyền con nối : Nghề chăn nuôi cá tra-basa xuất phát từ làng bè Thị xã Châu Đốc, được truyền từ đời này sang đời khác nên thường chỉ nuôi theo những kinh nghiệm có được mà ít áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật hay tìm hiểu thêm những thông tin hay những kinh nghiệm bên ngoài.
- Chăn nuôi phát triển rất tự phát : Người chăn nuôi cá tra-basa có thói quen sản xuất tự phát, chưa tuân thủ quy hoạch và kế hoạch phát triển NTTS của ngành và của tỉnh.
- Hộ chăn nuôi thường thiếu những kinh nghiệm khoa học : Đây là đặc điểm phổ biến nhất của những người chăn nuôi cá tra-basa. Hầu hết những người chăn nuôi cá tra-basa là những người nông dân, bên cạnh những ngư dân chăn nuôi cá tra-basa truyền thống như ở Làng bè Châu Đốc, Phú Tân là những ngư dân có tính chất “cha truyền con nối” thì còn lại là những nông dân chuyển đổi từ các ngành nghề khác hay những người có vốn thậm chí không có vốn và ít có am hiểu về con cá tra-basa cũng đào ao nuôi cá vì thấy việc nuôi cá tra-basa đã làm cho không ít người trở thành những tỷ phú nghề cá. Chính những nguyên nhân đó mà nhiều người dù thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết khoa học thậm chí không có kinh nghiệm cũng đã kéo nhau đào ao nuôi cá mong kiếm được lợi ích từ nghề này mà không lường trước được những rủi ro tiềm ẩn trong tương lai.
- Chỉ thấy lợi ích trước mắt : Trên lý thuyết người chăn nuôi cá tra-basa và các nhà máy chế biến thủy sản phải luôn luôn cùng nhau nhìn về một hướng để phát triển, cùng nhau chia sẻ lợi ích đôi bên cùng có lợi nhưng thực tế không phải như vậy mà họ luôn “rình rập” nhau. Nếu thị trường có khuynh hướng có lợi cho ai thì người đó sẽ cố gắng khai thác tối đa lợi ích về phía mình sao cho thu về lợi nhuận cao nhất. Đơn cử như khi giá cá nguyên liệu tăng thì người chăn nuôi ghim hàng không chịu bán cho các nhà máy chế biến để mong chờ giá sẽ tăng hơn nữa, còn khi giá cá giảm thì các nhà máy chế biến viện đủ lý do để không thu mua hay có mua nhưng không thu mua theo giá đã ký trong hợp đồng mà mua với mức giá thấp hơn. Cả người nuôi và người thu mua đều vi phạm hợp đồng chỉ vì lợi ích trước mắt.
- Vốn tự có ít so với tổng nhu cầu vốn : Nhu cầu vốn cho việc chăn nuôi cá tra-basa rất lớn, nhất là các chi phí cho việc mua thức ăn (chiếm khoản 70% đến 80% nhu cầu vốn). Các loại chi phí đó rất lớn mà không phải riêng một cá nhân nào cũng có thể đáp ứng được. Vì vậy, phần lớn người chăn nuôi cá tra-basa đều thiếu vốn cho 1 chu kỳ nuôi nên phải vay vốn ngân hàng và vay thêm bên ngoài. Trường hợp nếu không bán được cá tiếp tục nuôi thì chí phí lại càng tăng thêm nhất là chi phí thức ăn để tiếp tục nuôi cá. Từ đó phải vay thêm tiền, nợ càng tăng (nợ ngân hàng, nợ vay bên ngoài, nợ tiền mua thức ăn – xăng – dầu,…) nhưng cá lại càng khó bán hơn do vượt tiêu chuẩn mà những NMCB cần.
- Lợi nhuận từ ngành chăn nuôi cá tra-basa thường cao hơn những ngành khác nhưng bấp bênh : Lợi nhuận từ hoạt động chăn nuôi thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng là rất cao so với các ngành nghề khác hiện nay. Trong khoảng thời gian 6 tháng chăn nuôi có người trở thành tỷ phú và cũng trong khoảng thời gian này có người từ tỷ phú mất hết vốn, nợ nầng “bao vây”. Vì vậy, nghề chăn nuôi cá tra basa chứa đựng rất nhiều rủi ro. Đặc điểm này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đào ao nuôi cá hàng loạt, một số người giàu lên nhanh chóng và cũng không ít người bị phá sản.
Trên đây là một số đặc điểm chủ yếu của nh
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Nghiên cứu những giải pháp nhằm tối ưu hóa chi phí logistics cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics Luận văn Kinh tế 0
D Những giải pháp khắc phục bội chi ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay Luận văn Kinh tế 0
D Những giải pháp thúc đẩy phát triển nghành du lịch Ninh Bình Văn hóa, Xã hội 0
D Tiêu chuẩn Công chứng Viên theo pháp Luật những hạn chế bất cập và giải pháp hoàn thiện Luận văn Luật 0
D Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị Văn hóa, Xã hội 0
D Những giải pháp nâng cao chất lượng múa hát tập thể cho học sinh tiểu học Luận văn Sư phạm 0
D Nghiên cứu xu thế phát triển, những tác động của công nghệ IoT (internet of things) và đề xuất giải pháp quản lý phù hợp Công nghệ thông tin 0
D Nghiên cứu những hạn chế và giải pháp khắc phục cho canh tác ruộng bậc thang tại Huyện Văn Chấn-Tỉnh Nông Lâm Thủy sản 0
B Những giải pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Quốc Tế chi nhánh Thanh Xuân Luận văn Kinh tế 2
H Đề án Giải pháp để giải quyết những khó khăn đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế t Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top