daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay mua xe ô tô đối với khách hàng cá nhân tại Ngân Hàng TMCP Á Châu
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta những năm gần đây khá phát triển. Hoạt động của ngành ngân hàng là một trong những ngành có đóng góp đáng kể. Trong đó, tín dụng ngân hàng là bộ phận quan trọng đã đáp ứng nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh tế trên các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trong điều kiện hiện nay, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của sử dụng vốn, của nghiệp vụ tín dụng là điều không thể thiếu nhằm đảm bảo cho sự sống còn và phát triển của mỗi ngân hàng.
Ngày nay, đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, cùng với đó là sự tăng trưởng không ngừng của nhu cầu tiêu thụ hàng hoá, nhu cầu đi lại của người dân cả nước. Trên thị trường hiện nay, nhu cầu mua xe ô tô và vay vốn để mua xe ô tô khá lớn. Bên cạnh đó, thị trường xe ô tô đang nóng dần trở lại với vô số các mẫu mã xe phong phú, với nhiều mức giá cả khác nhau, cả từ nguồn nhập khẩu lẫn sản xuất trong nước, càng thúc đẩy người tiêu dùng muốn được nhanh chóng sở hữu một chiếc ô tô như mong ước, cho bản thân hay cho cả gia đình. Trước tình hình đó, nhu cầu sản phẩm cho vay mua ô tô phải được đáp ứng sao cho phù hợp hơn với nhu cầu hiện tại của khách hàng là hết sức cần thiết. Điều này cũng chứng tỏ sự nhanh nhạy, đáp ứng kịp thời những thay đổi liên tục của thị trường cũng như nhu cầu vay vốn để mua ô tô ngày càng lớn từ các khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp.
Khi Việt Nam gia nhập WTO ngày 7/11/2006 giảm hàng rào thuế quan đối với các mặt hàng, đặc biệt là ôtô được nhập khẩu vào nước ta ngày càng nhiều. Qua quá trình tìm hiểu em thấy nhu cầu mua ôtô ngày càng tăng và Ngân hàng tham gia vào lĩnh vực này để hỗ trợ các khách hàng khi họ có nhu cầu vay mua ôtô mà chưa đủ vốn, hoạt động này làm tăng tiện ích cho khách hàng và mang lại cho nền kinh tế một sự phát triển nhất định.Vì vậy em chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay mua xe ô tô đối với khách hàng cá nhân tại Ngân Hàng TMCP Á Châu”. Đây là một trong những sản phẩm của hoạt động tín dụng tiêu dùng nên nghiên cứu vấn đề này giúp em hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng.
1. Tính cấp thiết của đề tài: Nếu như người ta thường nói, ngân hàng là doanh nghiệp của mọi doanh nghiệp, là mạch máu của nền kinh tế, là trung tâm giao lưu của muôn vàn hệ thống pháp luật, là lĩnh vực hoạt động nhạy cảm và phức tạp, thì tín dụng cá nhân là một bộ phận quan trọng làm nên ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng TMCP.
Để phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng TMCP ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang dần hình thành nên xu hướng kinh doanh chính bao gồm:
- Từng bước nâng cao năng lực tài chính
- Phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng bán lẻ dựa trên nền tảng công nghệ cao.
- Xây dựng chiến lược hướng tới khách hàng.
- Phát triển mạng lưới và các kênh phân phối.
Điểm nổi bật trong xu hướng kinh doanh của hầu hết các NHTM hiện nay là hoạt động kinh doanh ngân hàng bán lẻ. Đối tượng khách hàng bán lẻ mà các NHTM nhắm đến là nhóm khách hàng cá nhân có thu nhập từ trung bình ổn định trở lên và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạm thời bỏ qua đối tượng khách hàng doanh nghiệp do nằm ngoài giới hạn nghiên cứu của đề tài, nhóm khách hàng cá nhân được xem là một thành phần cơ bản trong xu hướng kinh doanh bán lẻ của các NHTM hiện nay.
Trong thực tế hoạt động của các NHTM ở Việt Nam, nhóm KHCN thường chiếm tỷ trọng nhỏ hơn về doanh số giao dịch so với KHDN, việc phân tích và thẩm định đối với KHCN cũng tương đối đơn giản, vì vậy các NHTM thường đặt nặng vấn đề quản trị hiệu quả tín dụng đối với nghiệp vụ dành cho KHDN nhiều hơn. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu giao dịch với NH của các KHCN ngày càng gia tăng thì việc quan tâm đúng mức hiệu quả cho vay đối với đối tượng KHCN là yêu cầu tất yếu trong chiến lược cạnh tranh của các NHTM, phù hợp với xu hướng kinh doanh NHBL. Nhìn vào tình hình hoạt động cho vay của các TCTD tiêu biểu là của các NHTM trong thời gian qua, ta thấy có những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tuy nhiên nó cũng còn nhiều mặt tồn tại cần giải quyết và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của công tác này. Trong các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng nói chung và nghiệp vụ ngân hàng đối với KHCN nói riêng, hoạt động cho vay luôn nhận được sự chú ý quan tâm đặc biệt của các nhà quản trị NHTM. Sở dĩ như vậy vì hoạt động cho vay luôn là hoạt động mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho NHTM và đồng thời cũng là hoạt động gánh chịu nhiều rủi ro tiềm ẩn nhất. Trên cơ sở lý luận học được tại trường và kinh nghiệm thực tiễn thu được trong quá trình thực tập tại Ngân Hàng TMCP Á Châu – PGD Chợ Đầm tui tiến hành nghiên cứu và tìm hiểu về đề tài : “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay mua xe ô tô đối với khách hàng cá nhân tại Ngân Hàng TMCP Á Châu”.
2. Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu hoạt động tín dụng cho vay mua xe ô tô và hiệu quả của nguồn vốn ngân hàng, từ đó rút ra nhận xét và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng này.
3. Đối tượng nghiên cứu: Xuất phát từ mục tiêu của đề tài, đề tài chọn đối tượng nghiên cứu không phải tất cả các chủ thể trong quan hệ cho vay với ngân hàng mà chỉ tập trung vào đối tượng cụ thể là KHCN. Mặt khác cũng chỉ đề cập đến hoạt động cho vay đối với đối tượng này.
4. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM nói chung, thực trạng cho vay mua ôtô đối với KHCN của ACB và những giải pháp mở rộng cho vay mua ôtô.
5. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu sử dụng phương pháp biện chứng và lôgic khái quát tổng quan, phân tích luận giải vấn đề, đồng thời sử dụng phương pháp phân tích thống kê hoạt động kinh tế để phân tích lý luận và luận giải thực tiễn. Đặc biệt sử dụng phương pháp chỉ số, phương pháp so sánh khái quát và tổng hợp, sử dụng chỉ số thống kê để phân tích.
6. Kết cấu của đề tài:
Chuyên đề này bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ sở về hoạt động cho vay tiêu dùng của KHCN.
Chương 2: Thực trạng về hoạt động cho vay mua ôtô đối với khách hàng cá nhân tại ACB.
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay mua ôtô đối với khách hàng cá nhân tại ACB.


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CƠ SỞ VỀ̀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA KHCN.
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CÁ NHÂN
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển cho vay tiêu dùng
Hoạt động kinh tế́ bắt đầu trên thế giới này từ khi có con người. Ý thức cơ bản đầu tiên của mọi sinh vật là ý thức về sự sống và cái chết. Một cách rất bản năng, con người thời cổ hiểu rằng, để tồn tại, người ta phải hoạt động để kiếm cái ăn, cái uống. Dù sống đơn bộ hay sống bầy đàn, điều trước tiên người ta phải làm là tránh sự đe dọa của cái chết. Trong các đe dọa bị cái chết tước đoạt như đói khát, kẻ thù, thú dữ, tật bệnh, thiên tai..., thì đói và khát là loại đe dọa thường xuyên nhất. Và để thoát khỏi sự đe dọa này người ta phải làm việc. Ngày nay chúng ta gọi những công việc hay những hoạt động nhằm tạo ra nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống, cho sinh hoạt và phát triển là hoạt động kinh tế.
Vào thuở bình sinh của nhân loại, hoạt động kinh tế diễn ra trong từng cá nhân hay từng nhóm nhỏ của gia đình, ở đó sản phẩm được dùng chung và số thừa được cất giữ. Mỗi người, hay mỗi nhóm tự tạo ra mọi thử mà mình cẩn. Sản phẩm thừa hay được dự trữ hay đem cho. Hầu như không có trao đổi. Đây là chế độ tự cung tự cấp kiểu cá nhân hay gia đình, khi con người còn sống trong hang, chưa có chữ viết và thậm chí chưa có ngôn ngữ.
Chính sự phình to của dân số đã đẻ ra nhu cầu sống cộng đồng. Với dân số ngày càng đông và kiếm ăn trở nên khó khăn hơn, người ta bắt đầu ý thức rằng ngoài sự chết do đói và khát mang đến, kẻ thù và những thiên tai cũng là những mối đe dọa không kém nguy hiểm. Để thoát khỏi sự đe dọa này, sống chung với nhau là điều tốt vì nhiều người đoàn kết nhau bao giờ cũng bảo vệ mình và mọi người tốt hơn trường hợp mỗi người sống một cách riêng rẽ. Cộng đồng ra đời trên nền tảng đó và bắt đầu phát triển. Cuộc sống mới với những quan hệ khác, sinh hoạt khác ngoài thói quen cá nhân, làm xuất hiện các loại nhu cầu mới: thống nhất về tiếng nói, chữ viết. Đồng thời quan hệ lẫn nhau trong cộng đồng đã tạo ra sự thông cảm, giảm bớt nghi kỵ, thù hằn và thói quen cô lập sinh hoạt. Ăn chung, làm chung dẫn đến việc người ta bắt đầu dùng của dư để cho những người cùng sống vay, hay dùng nó để trao đổi cái khác mà họ không có.
Hoạt động trao đổi bắt đầu, chấm dứt cuộc sống tự cung tự cấp cá nhân. Vào thời gian thứ nhất, trao đổi bó hẹp trong khuôn khổ cộng đồng và nhỏ bé, chủ yếu trên các sản phẩm thừa và không hề có những cá nhân hay nhóm chuyên làm công việc này. Sự bành trướng của cộng đồng thành xã hội là động lực chính chuyển hóa quá trình trao đổi (mà David Hume gọi là trao đổi thiện chí) này thành một loại hình thương mại. Khi cộng đồng còn nhỏ, người ta chung sống với nhau dựa vào nhu cầu bảo vệ, niềm tin và sự kính trọng. Trong cộng đồng, người lớn tuổi nhất đương nhiên trở thành lãnh đạo vì kinh nghiệm sống, hiểu biết thiên nhiên và con cháu đông đảo của ông tạo nên. Khi cộng đồng ngày càng bành trướng, mối dây huyết thống và niềm tin lẫn nhau không còn đủ sức kiềm tỏa con người biết kính trọng và tôn phục người khác, do có quá nhiều nguồn gốc người và thành phần người khác nhau. Nhu cầu cấp bách để cộng dồng được tồn tại là phải có những ràng buộc nhất định để các cá nhân không được xâm hại đến quyền lợi người khác, không được làm điều gì xấu cho cá nhân khác và cộng đồng, không được làm rạn nứt niềm tin và sự đoàn kết của cộng đồng. Các ước lệ bắt đầu phát sinh thế dần chỗ của niềm tin, sự tự giác và đạo đức cá nhân. Cộng đồng càng lớn, các ước lệ càng được chi tiết hóa và cụ thể hóa thành thưởng và phạt. Đồng thời nhu cầu có người lãnh đạo thống nhất để duy trì các ước lệ cũng được biểu hiện. Khi vai trò lãnh đạo bắt đầu có, để phục vụ cho công việc chung, lãnh đạo cần có người giúp việc và phương tiện. Pháp luật và các thiết chế xã hội khác bắt đầu phát sinh từ đó. Xã hội càng phát triển, guồng máy tổ chức của nó càng trở nên cụ thể và phức tạp. Nhu cầu trao đổi ngày càng lớn khi quá trình chuyên môn trở nên chi tiết hơn.
Vì mỗi người không thể tự tồn tại được với duy nhất loại sản phẩm do mình làm ra, mà cần có một số sản phẩm khác do các cá nhân còn lại tạo thành, mọi người phải trao đổi sản phẩm cho nhau để cùng tồn tại một cách đầy đủ hơn và tốt hơn. Quá trình trao đổi trở nên tinh vi dần với việc bắt đầu hình thành giai cấp trong xã hội. Đã có sự xuất hiện của một số cá nhân trong cộng đồng chuyên đi làm công việc trao đổi sản phẩm của người này cho người khác, mà ngày nay chúng ta gọi là buôn bán.Ở một số vùng, tổ chức xã hội chưa phát triển, chưa có phân công lao động và chuyên môn hóa, con người hầu như vẫn tồn tại theo kiểu tự cung tự cấp là chính và trao đổi nếu có, cũng chỉ là loại trao đổi thiện chí theo cách nói của David Hume. Trong những cộng đồng phát triển trước nói trên, buôn bán và sản xuất được giải quyết trực tiếp qua hình thức lấy hàng hóa trao đổi hàng hóa hay “Barter”. Mấu chốt cơ bản để hoạt động Hàng đổi hàng hay Barter được tiến hành, là phải có sự trùng lắp nhau về nhu cầu giữa hai tác nhâu hay hai người muốn trao đổi (Double Coincidence of Wants).
Nghiên cứu những chứng tích xa xưa nhất trong các trường ca và sử thi như Iliade và Odyssée của Homere hay sử thi Bhagavad Gita của Ấn độ, chỉ thấy có 1 số lượng rất ít sự tồn tại của tình trạng, mà ngày nay chúng ta gọi là cho vay lấy lãi trong một vài nhóm người. Chủ yếu là cho vay và trả bằng sản vật. Vàng bạc hay một số kim loại khác đã được biết đến. Tuy nhiên lúc này cộng đồng chưa xem là của cải.
Đến giai đoạn khoảng 3500 năm trước Công nguyên, đã có một vài cộng đồng sử dụng các loại phương tiện trung gian trao đổi tuy mức độ phổ biến chưa rộng. Từ thời gian này cho đến 1800 năm trước Công nguyên, tư liệu cho biết đã có một vài hoạt động mang tính chất khá tương tư như tín dụng ngân hàng thời nay. Tín dụng tiêu dùng ra đời cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Đây là một hình thức khá phổ biến hiện nay đặc biệt là ở môt số nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên hình thức này còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Chúng ta đã quen với việc mua hàng hóa tiêu dùng có giá trị từ vài triệu lên đến vài trăm triệu được trả trực tiếp bằng tiền mặt nhưng việc này là rất hiếm hoi ở nước ngoài. Bởi vì ở nước ngoài việc thanh toán hầu hết được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng.
Để tạo điều kiện cho các khách hàng có thể thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng (mua sắm hàng hóa) của mình, các ngân hàng sẽ cho vay tiêu dùng bằng tiền hay hàng hóa. Người được hưởng tín dụng tiêu dùng không phải thế chấp bất cứ một loại tài sản nào mà chỉ cần chứng minh được thu nhập. Người vay tín dụng sẽ phải trả một phần gốc và lãi hàng tháng. Hạn mức tín dụng căn cứ vào thu nhập bình quân của người đó Thời hạn của tín dụng tiêu dùng từ 1 năm đến 5 năm.


1.1.2. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là một trong những nghiệp vụ của ngân hàng. Cho vay tiêu dùng là một khái niệm chỉ mối quan hệ về kinh tế trong đó ngân hàng chuyển cho khách hàng quyền sử dụng một lượng giá trị (tiền) với những điều kiện mà hai bên đã thỏa thuận nhằm giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hóa, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một mức sống cao hơn.
1.1.3. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
 Đặc điểm về đối tượng cho vay tiêu dùng
Nhu cầu vay tiêu dùng là khá phổ biến do đối tượng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội từ những người có thu nhập cao đến những người có thu nhập trung bình và thấp với nhiều nhu cầu phong phú và đa dạng
 Đặc điểm về mục đích cho vay tiêu dùng
Nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Nhu cầu đó có thể xuất phát từ việc: mua nhà, sửa chữa nhà, xây dựng, mua sắm phương tiện, đồ dùng, hay các nhu cầu du lịch, học hành hay giải trí...
 Đặc điểm về nhu cầu và quy mô cho vay tiêu dùng
Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường phải phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, bên cạnh đó còn phụ thuộc chặt chẽ vào mức thu nhập và trình độ học vấn. Khi nền kinh tế thịnh vượng, đời sống của người dân được nâng cao thì nhu cầu vay tiêu dùng lại càng cao. Những người có thu nhập khá và tương đối đều sẽ tìm tới cho vay tiêu dùng bởi họ có khả năng trả được nợ.
Quy mô khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay rất lớn.
 Đặc điểm về rủi ro của cho vay tiêu dùng
Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao vì bên cạnh sự ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội nó còn phải chịu tác động của những nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân khách hàng.
Trong cuộc sống, chúng ta không thể lường trước được hết hậu quả do những rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thiên tai… Đặc biệt, hoạt động cho vay tiêu dùng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, nhất là khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Khi đó, người tiêu dùng sẽ không thấy tin tưởng vào tương lai và cùng với những e sợ về nguy cơ thất nghiệp, họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ ngân hàng.
Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn chịu một số rủi ro chủ quan như tình trạng sức khoẻ, khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình…Điều đó tạo nên rủi ro lớn cho ngân hàng, hơn nữa thông tin tài chính của đối tượng này rất khó đầy đủ và chính xác hoàn toàn. Mặt khác yếu tố đạo đức của cá nhân người tiêu dùng cũng là nhân tố tác động trực tiếp vào việc trả nợ cho ngân hàng, hay số lượng các khoản vay tiêu dùng là rất lớn trong khi đó số lượng CBTD ngân hàng lại có hạn cũng sẽ tạo nên rủi ro cho ngân hàng.

Các khách hàng cá nhân đang có dư nợ tại ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn khi muốn đề nghị tăng mức cấp tín dụng nhưng giá trị còn lại của tài sản đảm bảo không đủ, buộc các khách hàng phải đưa thêm vào tài sản đảm bảo. Tuy nhiên không phải khách hàng cá nhân nào cũng có nhiều tài sản để đem vào thế chấp ngân hàng. Ngoài ra, cũng có một số trường hợp các khách hàng muốn rút tài sản đang thế chấp tại ACB để tiến hành một hoạt động mở rộng đầu tư thêm. Song điều này là không thể vì nó làm ảnh hưởng đến khoản vay hiện có tại ACB. Mặt khác hiện nay có rất nhiều khách hàng muốn được vay vốn tại ngân hàng nhưng không có tài sản đảm bảo và không nằm trong địa bàn triển khai loại hình co vay tín chấp. Những trở thành một trở ngại vô hình này đã hạn chế sự tiếp cận của nguồn vốn vay ở khối KHCN cũng như làm hạn chế tốc độ ăng trưởng tín dụng của ngân hàng trong thời gian qua.
Đối tượng khách hàng:
Trước mắt, đối tượng khách hàng của giải pháp này là nhắm đến những khách hàng cá nhân đang có quan hệ tín dụng với ACB. Nhưng vì một lý do nào đó mà các khách hàng cá nhân này cần giải chấp một hay toàn bộ tài sản đang thế chấp tại ACB sẽ được ưu tiên cho vay theo loại hình vay “cho vay không cần TSĐB”.
Về tương lai, đối tượng khách hàng của sản phẩm này không chỉ giới hạn ở các KHCN đang có quan hệ tín dụng với ACB mà còn có thể áp dụng cho một số lượng lớn khách hàng mới có quan hệ tín dụng lần đầu. Để thực hiện được điều này đòi hỏi ngân hàng phải có một hệ thống pháp lý rõ ràng, thông tin tài chính của khách hàng minh bạch, chính xác, khi đó, ngân hàng có thể hoàn toàn dựa vào thông tin tín dụng của khách hàng trong quá khứ cũng như phương án vay vốn và sử dụng vốn trong thời gian sắp tới để có thể ra quyết định cho vay không cần tài sản đảm bảo. Đây cũng là xu hướng tất yếu của hoạt động tín dụng ở nước ta trong thời gian tới.
cách thực hiện: cần xây dựng các tiêu chuẩn áp dụng cho loại hình cho vay không cần TSĐB.
Hiệu quả của giải pháp: sẽ mang đến cho ACB hai lợi ích chính:
Thứ nhất: giải pháp góp phần gia tăng hình ảnh của ACB trong việc chăm sóc khách hàng, đặc biệt là những khách hàng đang có quan hệ tín dụng tốt với ACB. Ngân hàng sẵn sàng đưa ra những điều kiện ưu đãi nhất nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động tín dụng của các khách hàng thông qua hình thức “cho vay không cần TSĐB”. Ngoài ra, việc cho việc chăm sóc khách hàng cũ sẽ có hiệu quả hơn so với các biện pháp tiếp thị nhằm tìm kiếm khách hàng mới. Bởi lẽ nếu nhóm khách hàng hiện đại được chăm sóc chu đáo thì ACB sẽ không mất nhiều công sức và chi phí vẫn có được nguồn khách hàng mới từ nguồn khách hàng cũ này.
Thứ hai: việc triển khai áp dụng đại trà hình thức “cho vay không cần TSĐB” như trên tại ACB sẽ mở ra một tiền đề đặc biệt là ở các ngân hàng TMCP vốn dĩ rất hạn chế trong việc cho vay không cần đảm bảo.
Đánh giá rủi ro:
Khi triển khai tốt hình thức “cho vay không cần TSĐB” thì ngân hàng Á Châu sẽ kiếm được một lượng khách hàng lớn là các KHCN vì thực tế thấy đa số các KHCN không có hay không đủ tài sản thế chấp cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện loại hình này thì ngân hàng sẽ gặp phải rất nhiều rủi ro vì khi đó ngân hàng không có nguồn thu nợ thứ 2 để bổ sung.
Chính vì vậy, đề có thể hạn chế được rủi ro này, trước khi ra quyết định cho vay, ngân hàng cần thẩm định kỹ lưỡng phương án kinh doanh cũng như nguồn trả nợ của khách hàng. Đây là hai yếu tố quan trọng để đảm bảo an toàn cho khoản vay của khách hàng. Để đảm bảo tính khách quan cũng như sự an toàn cao, thì các khoản cho vay không cần đảm bảo phải được Ban Tín dụng Hội sở hay Hội đồng Tín dụng phê duyệt.
Cũng cần lưu ý rằng, việc thẩm định khách hàng không chỉ diễn ra trước khi cho vay mà cũng cần thực hiện trong và sau khi cho vay. Nghĩa là, sau khi giải ngân khách hàng, nhân viên tín dụng thường xuyên theo dõi việc sử dụng vốn vay, kiểm tra tình hình công việc và hoạt động kinh doanh của họ, yêu cầu bổ sung chứng từ đẩy đủ cho lần giải ngân trước đó… Ngoài ra, khi cho vay theo hạn mức tín dụng, nhân viên tín dụng cần xác định thời hạn thu nợ trên các khế ước nhận nợ phù hợp với chu kỳ hoạt động kinh doanh, quá trình chu chuyển tiền tệ của bên đi vay, chứ không nên xác định một cách máy móc theo thói quen. Như vậy, sẽ dễ làm phát sinh tình trạng đến hạn thu nợ phải cơ cấu lại thời gian trả nợ.
 Đẩy mạnh cho vay những sản phẩm thế mạnh của ACB:
- Đẩy mạnh tiếp thị đến những khách hàng tiềm năng.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Tăng cường huy động vốn với chi phí thấp nhất.
Vì là hình thức tài trợ cho vay mua nhà, căn hộ, biệt thự nên lãi suất cho vay áp dụng với hình thức này có nhiều ưu đãi hơn so với biểu lãi suất cho vay thông thường. Do đó, vấn đề đặt ra là làm thế nào để ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp nhất.
Đối với các sản phẩm cho vay tiêu dùng: Đây là sản phẩm cho vay truyền thống của ACB, dư nợ cho vay đối với loại hình này đều tăng qua các năm. Tuy nhiên, đây là sản phẩm chiếm số lượng khách hàng lớn nhưng ngân hàng vẫn chưa tân dụng được hết ưu thế từ các khách hàng này. Việc cạnh tranh loại hình cho vay này giữa các ngân hàng là rất gay gắt. Nếu ngân hàng chỉ dừng lại ở những tiện ích đơn giản thì rất khó giữ khách hàng cũng như là lôi kéo nguồn khách hàng mới đến với mình. Vì vậy mà ngân hàng và đặc biệt là CN Sài Gòn nên phát huy hết lợi thế của mình để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng lớn khác. Việc cho vay nên triển khai linh hoạt có tài sản bảo đảm hay cho vay tín chấp. Ngân hàng cần đưa ra nhiều tiện ích và dịch vụ mới về sản phẩm này để có thể đáp ứng được nhu cầu vay đa dạng của khách hàng. Sự chênh lệch về dư nợ giữa nhóm khách hàng có tài sản bảo đảm chiếm đến 80% dư nợ cho vay tiêu dùng có TSĐB còn nhóm khách hàng vay không có TSĐB chỉ chiếm đến 20%.
Trong thời gian tới cần phân loại ra 2 nhóm khách hàng: nhóm khách hàng cũ đang có quan hệ tín dụng và nhóm khách hàng chỉ có giao dịch tài khoản. Với nhóm khách hàng chỉ có quan hệ giao dịch tài khoản, nhân viên sẽ theo dõi doanh số giao dịch tài khoản qua chương trìn, từ đó chọn lọc những khách hàng tiềm năng để tiếp thị. Tuy nhiên, hạn chế của nhóm khách hàng này là chưa có tài sản đảm bảo nên điều kiện áp dụng sẽ tương đối khắt khe nên lượng khách hàng bị hạn chế.
Với nhóm khách hàng cũ đang có quan hệ tín dụng thì sẽ tiến hành chọn lọc những khách hàng đáp ứng điều kiện, sau đó sẽ giới thiệu những tiện ích sản phẩm “cho vay thấu chi” cho khách hàng. Hướng giải quyết này được đánh giá là khả thi hơn và có cơ sở vì có nhữn điều kiện ưu đãi hơn về doanh số ghi có cũng như doanh thu trung bình hàng tháng. Trong tương lai, ACB nên áp dụng giải pháp này để khai thác lượng khách hàng mới.
3.4.2.Đối với NHNN
NHNN nhanh chóng hoàn thiện và ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động cho vay trả góp mua ôtô. Các NHTM hiện nay vẫn phải dựa vào hệ thống văn bản pháp luật chung của NN kết hợp với quy định riêng của chính ngân hàng để thực hiện hoạt động cho vay trả góp mua ôtô. Do vậy, trong thời gian tới, NHNN cần ban hành cơ sở pháp lý thống nhất để bảo vệ quyền lợi của NHTM vì thị trường cho vay trả góp mua ôtô hứa hẹn là thị trường đầy tiềm năng trong tương lai.
NHNN tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các NHTM nhằm tăng cường tính công khai và minh bạch trong hoạt động ngân hàng, đồng thời củng cố lòng tin của khách hàng, NHNN cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng. Để công tác này đạt hiệu quả, NHNN cần có hệ thống thanh tra đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng. Những vi phạm về quy chế tín dụng cần được xử lý nghiêm túc.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng CIC. Trung tâm thông tin tín dụng giúp NHNN quản lý và kiểm soát hoạt động của các tổ chức tín dụng. Khi muốn tra cứu thông tin về khách hàng, các NHTM chỉ cần gửi yêu cầu đến CIC và sẽ nhanh chóng được trả lời. Mặc dù CIC có vai trò quan trọng như vậy nhưng vẫn không được NHNN quan tâm phát triển, thông tin về khách hàng chưa đầy đủ. Vì vậy, trong thời gian tới, NHNN cần có biện pháp nâng cao chất lượng của CIC. Cần có biện pháp tích cực hơn nữa để nâng cao trình độ cho cán bộ ngân hàng: NHNN nên đứng ra tổ chức thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn về nghiệp vụ và các buổi học tập trao đổi kinh nghiệm giữa các ngân hàng, nhất là đối với những loại sản phẩm dịch vụ mới phát triển gần đây như hoạt động cho vay trả góp mua ôtô.
3.4.3. Đối với Chính phủ:
Cho vay tiêu dùng là hoạt động tín dụng của các ngân hàng, hoạt động này không chỉ mang lại lợi ích đối với khách hàng và nguồn thu nhập cho bản thân ngân hàng mà nó còn có ảnh hưởng tới toàn xã hội. Mở rộng hoạt động cho vay trả góp mua ôtô là một tất yếu đối với các NHTM Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới. Do vậy, Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan cần tạo điều kiện hỗ trợ để hoạt động này phát triển thuận lợi. Cụ thể:
Nhà nước tích cực ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế, ưu tiên phát triển ngành công nghiệp sản xuất tiêu dùng và dịch vụ: tăng cung hàng hóa, giảm thất nghiệp , tạo công ăn việc làm. Nhà nước cần đưa ra chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đúng định hướng để ổn định môi trường kinh tế xã hội. Hoàn thiện môi trường pháp lý: tạo điều kiện thuận lợi mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng nói chung và cho vay trả góp mua ôtô nói riêng phát triển. Ngoài ra, hoàn thiện môi trường pháp lý cũng giúp các ngân hàng thắt chặt, đảm bảo an toàn tín dụng. Nhà nước cần áp dụng các biện pháp để cắt giảm thuế áp dụng với xe nhập khẩu theo lộ trình gia nhập WTO.

KẾT LUẬN
Việt Nam vừa trở thành thành viên chính thức của WTO, mọi vấn đề kinh tế thế giới đối với Việt Nam còn khá mới mẻ, hình thức cho vay trả góp mua ôtô vẫn đang ở trong giai đoạn đầu phát triển và được đánh giá là hoạt động có tiềm năng phát triển trong tương lai. Chính vì vậy, việc mở rộng hoạt động này là một xu thế tất yếu đối với các tổ chức tín dụng do những lợi ích thiết thực mà hoạt động này mang lại.
Tuy vậy, vấn đề này còn gặp phải nhiều khó khăn, để mở rộng hoạt động cho vay trả góp mua ôtô đạt hiệu quả cao, cần thực hiện theo một lộ trình, và đòi hỏi sự cố gắng của bản thân ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Trong phạm vi bài chuyên đề này, em đã trình bày một số giải pháp góp phần mở rộng hoạt động cho vay trả góp mua ôtô của hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và của ACB nói riêng.
Với lượng kiến thức và thời gian tìm hiểu thực tế còn hạn chế, nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được nhiều đóng góp quý báu của các thầy cô và những ai quan tâm đến vấn đề này để có thể tiếp tục hoàn thiện chuyên đề nghiên cứu của em.
Liên hệ với bản thân, một lần nữa em xin được gửi lời Thank chân thành tới PGS.TS Trương Thị Hồng và tập thể các anh chị tại phòng Tín dụng ACB-PGD Chợ Đầm đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
B [Free] Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Luận văn Kinh tế 0
F Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại SGD1 NH Đầu tư và Luận văn Kinh tế 0
D Tìm hiểu về bộ chứng từ trong thanh toán xuất nhập khẩu thực trạng và các giải pháp hoàn thiện tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Vận dụng quan điểm dạy học giải quyết vấn đề khi dạy học chương Dòng điện không đổi Vật lí 11 Luận văn Sư phạm 0
D Giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Vietinbank Luận văn Kinh tế 0
D Các giải pháp nâng cao hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại Công ty TNHH Phú Long Việt Nam Quản trị Nhân lực 0
D Giải pháp nâng cao hiệu quả quy trình sau tuyển dụng nhân sự của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Thuận Lợi Quản trị Nhân lực 0
D Bài giảng Giải tích hàm - trường Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM Ôn thi Đại học - Cao đẳng 0
D Giải pháp hạn chế rủi ro trong việc luân chuyển chứng từ thu, chi tiền đối với khách hàng tại Ngân hàng Sacombank Luận văn Kinh tế 0
D Giải pháp phát triển hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Quân Đội Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top