hoabinh_a20

New Member

Download Sách Bí mật mộ Khổng Minh miễn phí





HỒI THỨ NHẤT
 
TƯ MÃ VIÊM LÊN NGÔI VUA
 
ĐÁNH CHIẾM BA THỤC
 
Tư mã Viên cháu nội Tư Mã Ý (người bị Khổng Minh chê là đàn bà tặng cho chiếc yếm) được cha là Tư Mã Chiêu truyền ngôi cho làm vua thì cất quân đi đánh Ba Thục với lý do con của Lưu Bị cho Khương Duy (người làm thay Khổng Minh Gia Cát Lượng làm quân sư) đem quân đi đánh nước Ngụy. Trước đó có hai dư luận về Khổng Minh, một cho là Khổng Minh chán chuyện thế sự, vì biết nhiều thiên cơ nhưng không đảo ngược được thiên cơ, thành ra lên núi tu tiên, hai cho là Khổng Minh đã chết chôn trên Định Quân Sơn.
 
Nước Ba Thục không có tướng tài, quân lại yếu kém, quân sư không nhiều mưu mô thành ra bị Tư Mã Viên thôn tính.
 
Tư Mã Viên làm vua cả Ngụy lẫn Ba Thục lấy hiệu là Tấn Võ Đế đóng đô ở
Lạc Dương.
 
Tư Mã Viên cũng như Tào Tháo là người ưa các khoa học huyền bí như bói toán và khoa phong thuỷ. Bên cạnh vua luôn có những bốc sư như Hoa Hi, Gia Sủng (Hi và Sủng là cháu chắt của Hoa Hâm và Gia Hủ).
 
Bữa nọ Tấn Võ Đế nằm mơ thấy điều lạ, thực dậy bắt ngự sử ghi chép lại điềm mộng, sáng ra đưa các bốc sư đoán điền giải mộng, nhưng cả Hoa Hỉ lẩn Gia Sủng đều nói điềm mộng này qúa kỳ bí phải tìm Thần bốc Quản Bật mới đoán nổi (Quản Bật là cháu ba đời Qủan Lộ thần bốc của Tào Tháo).
 
Tân Vỏ Đế cho người lên núi Triệu Quản Bật xuống. Được lệnh vua Triệu Quản Bật vội vã xuống núi. Thấy Quản Bật là người tiên phong đạo cốt trán cao mắt sáng điệu bộ khoan thai từ tốn Tấn Võ Đế rất ưng ý.
 
Quản Bật giải thích cho Tấn Võ Đế biết điềm chiêm bao của vua có liên quan tới sự nghiệp lâu dài của Tấn Võ Đế. Nhưng vì là điềm kỳ bí nên Quản Bật nói rằng phải Gia Cát Lượng Khổng Minh hay Bàng Thông mới có đủ học vấn để giải thích được cặn kẽ điềm mộng này.
 
Tấn Võ Đế nghe Quản Bật nói thì ngạc nhiên hỏi rằng cả Khổng Minh lẫn Bàng Thống đã chết hai trăm năm rồi tìm đâu ra nữa. Bộ họ có thuật trường sinh bất tử sao mà tìm được.
 
Quản Bật đáp lại với Tấn Võ Đế là ông ta mới gặp Khổng Minh gần đấy trong một trường hợp hi hữu.
 
Theo Quản Bật thì mới đây Quản Bật đi Giang Nam, khi qua một khu rừng thì trời vừa tối Bậc liền leo lên một cây cổ thụ để tránh thú rừng và ngủ qua đêm.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MẤY LỜI ĐẦU SÁCH
Gia Cát Lượng (181- 234) tự Khổng Minh, là một nhân vật chính trị kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Cuối đời Đông Hán, vua hèn yếu, bị quyền thần lấn át, triều đình không kỷ cương phép tắc gì nữa. Bọn quan địa phương tha hồ vơ vét bóc lột của dân, khiến nhân dân vô cùng cực khổ lầm than. Lợi dụng tình hình ấy hào kiệt khắp nơi nổi lên cát cứ, thôn tính lẫn nhau, khiến đất nước loạn lạc tứ tung. Gia Cát Lượng là một người tài cao, học rộng nhưng còn đợi thời ở ẩn tại Nam Dương để có thời gian trao dồi thêm tài năng kiến thức, nuôi dưỡng chí lớn giúp đời. Ngay khi còn nằm trong túp liều tranh nhờ nghiên cứu phân tích tình hình thời thế dựa trên các yếu tố “ thiên thời địa lợi nhân hòa” một cách chính xác và sắc sảo, ông đã nhìn ra cái thế “chia ba chân vạc” của các nước Ngụy, Thục, Ngô. Được Lưu Bị ba lần thân hành đến mời, Gia Cát Lượng đã giúp đỡ Lưu Bị xây dựng nước Thục thành một trong ba nước hùng mạnh thời Tam quốc. Ông là một nhà quân sư thiên tài, đã vạch ra chiến lược chiến thuật khiến quân Thục đánh thắng quân Ngụy nhiều trận như trận thiêu đồn Bác Vọng, trận thủy chiến ơ Bạch Hà, trận hỏa công ở Xích Bích…Ông còn giỏi về cách dùng gián điệp, khổ nhục kế li gián hàng ngũ kẽ địch, dùng miệng lưỡi thuyết phục vận động kẻ địch, đánh vào tinh thần của chúng, hoàn thành sách lược liên minh với Ngô để chống Ngụy. Ông còn là một nhà khoa học như nghiên cứu thiên văn, bày “Bát trận đồ”, dùng trâu gỗ lắp máy để vận chuyển quân lương qua những rặng núi hiểm trở đất Thục. Khi Lưu Bị sắp qua đời, ân cần phó thác con côi là Lưu Thiện làm vua Thục Hán. Với chức vụ thừa tướng, lo sắp xếp công việc nội trị để giữ nước yên dân. Ông dâng bài “Xuất sư biểu”, xin đem quân đi đánh Ngụy, lời lẽ hùng tráng kích thiết, được coi là một tác phẩm văn học ưu tú của Trung Quốc. Trong sáu lần ra Kỳ Sơn, ông đã dùng nhiều mưu kế thần diệu như lên thành – đàn để đánh lừa Tư Mã Ý, mai phục ở cửa Kiếm môn để đánh quân Tôn Quyền…Không may ông mắc bệnh qua đời, nên sự nghiệp đành để lở dở, nhưng lịch sử còn ghi mãi tên ông như một nhà quân sự lỗi lạc.
Sự tích về Khổng Minh đầu tiên được chép trong Tam quốc chí của Trần Tho đời Hán, sau được đưa vào Nhi Thập tứ sử , bộ sử chính thống của Trung Quốc. Đại thi hào Đỗ Phủ đời Đường có bài thơ Đề Gia Cát Vũ hầu miếu hết lời ca ngợi con người và sự nghiệp của ông: “Lầm lẫm xuất sư biểu, Đường đường bát trận đồ”. Nhà chính trị và nhà thơ yêu nước Văn Thiên Đường đời Tống trong khi bị quân xâm lược Nguyên Mông bắt, đã làm bài Chính khí ca để giải bày tấm long của mình, trong khi nhắc đến những tấm gương oanh liệt trong lịch sử, đã đề cập đến Gia Cát Lượng trong câu thơ bất hủ “hay vi xuất sư biểu, Quỷ thần khấp trang liệt” (Bài biểu xin ra quân, khiến cho quỷ thần phải khóc trước sự hùng tráng). Nhưng phải đợi đến Tam quốc trí của La Qúan Trung đời Minh, dựa theo Tam quốc trí của Trần Thọ và những thoại bản lưu
truyền trong nhân gian để viết thành tiểu thuyết, sự tích Khổng Minh mới được
truyề tụng khắp chợ cùng quê và Khổng Minh thành nhân vật điển hình cho con người mưu trí tuyệt vời. Thông qua tài năng nghệ thuật của La Qúan Trung,
hình tượng Khổng Minh được xây dựng hết sức thành công, làm say mê mấy thế
hệ người đọc đến mấy chữ “mưu Gia Cát” “kế Khổng Minh” đã đi vào thành ngữ nhân gian.
Ở Việt Nam, sự tích về Khổng Minh đã được truyền tụng từ lâu. Khi Trần Nghệ Tông đem con gửi cho Hồ Qúi Ly, đã cho người vẽ bức tranh Tứ phụ đồ ban cho Qúy Ly, trong đó vẽ tích bốn người: Chu Công giúp Thành Vương, Hắc Quan giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Hán Hậu Chủ, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tôn, ngụ ý mong mởi Qúy Ly cũng sẽ giúp con mình như thế. Đến lúc Nghệ Tông đem việc này hỏi Trần Nguyên Đán (ông ngoại Nguyễn Trãi), ông lặng lẽ không đáp, hồi lâu chảy nước mắt và đọc hai câu thơ: “Nhận ngôn ký tử dữ lão nha, Bất thức lão nha liên ái Phủ” (Đem con mà gởi quạ già, Biết là cái quạ thương là chẳng thương). Nghệ Tông không nghe cứ đem con là Trần Thuận uỷ thác cho Qúy Ly, quả nhiên tám năm sau Qúy Ly bắt Thuận Tông phải nhường ngôi cho con mới lên ba tức Thiếu Đế, rồi lại truất Thiếu Đế mà lên làm vua.
Trong văn học dân gian cũng lưu hành giai thoại: Có một người học trò nhà nghèo, một hôm hết tiền ăn phải đem quần áo đến cầm ở nhà một ông quan. Ông này bảo : Thày có thực là học trò thì tui ra cho vế câu đối này, nếu đối được thì tui sẽ cấp tiền cho ăn học”. Rồi ông ta đọc luôn:
Quần tử cố cùng, Quận tử cùng, quân tử cố.
Nghĩa là: Người quân tử bền lòng lúc cùng, người quân tử cùng, người quân tử bền lòng.
Người học trò đối ngày rằng:
Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng, Khổng Minh cầm
Nghĩ là: Ông Khổng Minh bắt, tha, ông Khổng Minh tha, ông Khổng Minh bắt. Lấy tích “Khổng Minh thất cầm thất túng” bảy lần bắt bảy lần tha Mạnh Hoạch để dùng lượng khoan hồng thuyết phục kẻ địch quy thuận.
Ông quan khen phục câu đối vừa có nghĩa đen vừa có nghĩ bóng, vừa đối chữ, vừa đối tiếng( cùng, túng, cầm, cố), bèn cấp tiền cho anh ta ăn học.
Khi Đào Duy Từ ( 1572 – 1634 ) rời bỏ Đàng Ngoài tìm vào Đàng Trong, phiêu dạt tới Bình Định phải đi chăn trâu một thời gian rồi xin vào dậy học ở nhà quan Khám Lý Trần Đức Hòa. Từ làm bài Ngoạ Long Cương ngâm, tự ví mình với Khổng Minh qua đó bày tỏ chí hướng của mình. Trần Đức Hoà đọc lấy làm lạ liền tiến cử Từ tên chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Từ được chúa biết tài nên rất tin dùng, phong dần đến chức Quân cơ tham lý quốc chính, tước Lộc Khuê hầu. Chúa thường nói:”Duy Từ là Tử Phòng, Khổng Minh ngày nay vậy. Trong đoạn Ngoạ Long Cương ngâm có đoạn ca ngợi Khổng Minh:
Binh quyền việc những đương tay
Lâm cơ thể thắng, một này địch muôn. Trên bày Bác Vọng thiêu đồn
Bạch hà dung thuỷ, Hầu Đôn chạy dài. Bốn cờ biết mấy sức trai,
Có tài thiện chiến, có tài tâm công. Dạ nghiêm truyền dựa vịnh song,
Mười muôn tên Ngụy nộp cùng Chu Lang. Hỏa công dâng chước ra hàng,
Gió tàn Xích Bích thổi tàn Ngụy binh Hoa dung khiến tướng phân doanh. Gian cùng sớm đã nớp mình vỡ gan…
Nhiều tích về Khổng Minh được vẽ thành tranh, vẽ trên bình phong, tủ chè, ấm chén sứ…và dựng trên sân khấu tuồng được khán giả say mê thưởng thức như những vở Tam khi Chu Du, Huê dung đạo…
Khi Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu đánh Pháp tuần tiết được nhân dân đưa vào thờ ở đền Trung liệt trên gò Đống Đa, có người làm thơ để đền Trung liệt, hai câu kết như sau:
Lòng trung chỉ có lòng trung biết,
Đỗ Phủ ngày xưa khóc Vũ Hầu.
Ngụ ý ngày xưa Đỗ Phủ làm thơ khóc người trung nghĩa như Gia Cát Lượng thì nay mình cũng làm thơ khóc những người trung nghĩa như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.
Vì Khổng Minh là một người thành thạo về khoa học kĩ thuật thời trung cổ, nên trong dân gian từ lâu đã lưu hành câu chuyện về mộ Khổng Minh. Từ khi còn sống , Khổng Minh đã cho xây ng...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top