daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Chuẩn phân tích quy trình hoạch định cs trao học bổng đh KTQD
Giảng viên hướng dẫn:TS. Nguyễn Thị Lệ Thúy
Đề tài: “Hãy xác định một vấn đề chính sách mà bạn quan tâm và vận dụng quy
trình hoạch định chính sách để phản ánh quá trình lập chính sách để giải quyết
các vấn đề nêu trên”

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Họ và tên
Nguyễn Thị Xuân Mỹ
Nguyễn Hà Cẩm Tú
Nguyễn Thị Minh Ngọc
Lê Thảo Linh
Phạm Thị Thu Hiền
Phạm Thúy Nga
Đào Thu Hà

Mã sinh viên
11142880
11144890
11143146
11142422
11141466
11143015

11141114


Đề bài: “Hãy xác định một vấn đề chính sách mà bạn quan tâm và vận dụng quy
trình hoạch định chính sách để phản ánh quá trình lập chính sách để giải quyết
các vấn đề nêu trên”
Tên đề tài: Phân tích quy trình hoạch định chính sách: “Cấp học bổng cho sinh
viên hệ chính quy đại học Kinh tế Quốc dân”

Mục lục

Mở đầu
Một quốc gia muốn phát triển thì cần có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế
như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong các
nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc hội
nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, Đảng ta luôn xác định và yêu cầu: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt
Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có
khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn
năng lực nội sinh
Hiện nay, Việt Nam có số người trong độ tuổi lao động trên tổng dân số chiếm tỷ lệ
75,2% là nước đang ở giai đoạn dân số vàng, nhưng số lao động qua đào tạo có bằng
chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm tỷ lệ chỉ 17,9% (nông thôn 11,2). Cho thấy chất lượng
nhân lực ở nước ta còn thấp, cơ cấu lao động bất hợp lý, mất sức cạnh tranh trên thị
trường lao động.
Những hạn chế chủ yếu mà nguồnnhân lực Việt Nam đang gặp phải có thể kể đến
như:


Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền,
địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội,
gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu
cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham gia
vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị
đó.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên môn
cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và
khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ
sung hay đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là
công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường
làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu
của lao động Việt Nam.
Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác,
đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với
các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia.
Nguyên nhân của thực trạng trên có rất nhiều, nhưng một trong những nguyên
nhân phải kể đến vô cùng quan trọng đó là: “Tình trạng nhiều sinh viên có kết quả
học tập kém” dẫn đến việc yếu cả về kiến thức lý thuyết và kỹ năng làm việc thực tế.
Trường đại học Kinh tế Quốc dân nhận thấy đây là vấn đề vô cùng cấp thiết, đã và
đang không ngừng tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của tình trạng này để tìm hướng giải
quyết ngay khi sinh viên còn đang trong quá trình học tập tại trường.
I.

Phân tích chính sách

1. Vấn đề chính sách

 Tình trạng sinh viên tốt nghiệp đại học KTQD có kết quả học tập kém

Biểu hiện
Theo kết quả thống kê sinh viên xét tốt nghiệp ra trường, số sinh viên có bằng xuất
sắc chiếm khoảng 10%, số sinh viên có bằng giỏi chiếm khoảng gần 40% còn lại hơn
50% là số sinh viên có bằng khá và trung bình.
Về thực trạng của sinh viên hiện nay kỹ năng mềm còn hạn chế, kiến thức cơ bản
chưa vững. Do vậy chất lượng của sinh viên có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất
khoảng 20% là các sinh viên tích cực, chăm chỉ trong học tập và có thái độ nghiêm
túc; Nhóm thứ 2 khoảng 30% là các sinh viên học bình thường; Nhóm thứ 3 khoảng
50% là sinh viên học đối phó và lười học.


Sinh viên có biểu hiện: chán học, thường ngủ trong lớp, không chăm chú nghe giảng,
không làm bài tập, học theo kiểu đối phó,… đã dẫn đến kết quả kém trong các bài
kiểm tra.
Những môn của ngành kinh tế như Kinh tế vi mô, Kinh tế vĩ mô, Xác suất thống kê,
Kinh tế lượng, Nguyên lý thống kê, sinh viên đạt được điểm thường không cao, có
những lớp có điểm kiểm tra giữa kỳ chiếm hơn 80% là dưới 5. Chưa kể đến những
môn chính trị như Nguyên lý chủ nghĩa mác – lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường
lối cách mạng của ĐCS thì tỷ lệ này còn có thể là kết quả điểm tổng kết cuối kỳ. Giáo
dục thể chất cũng gặp phải tình trạng tương tự, có những sinh viên đã học đến năm 4
nhưng không thể ra trường vì chưa qua được thể dục.
Một vài cựu sinh viên NEU cho biết nếu bị nợ môn phải học đến năm thứ 4, thứ 5,
không ít sinh viên tỏ ra chán chán nản với ngành nghề đang được đào tạo, một số sinh
viên còn bỏ học và quyết định đi làm nghề khác.
Hậu quả
Nguồn nhân lực Việt Nam là nguồn nhân lực dồi dào nhưng bất hợp lý. Cơ cấu nhân
lực không phù hợp với nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp dẫn đến tình trạng thất
nghiệp.

Hiện nay cả nước có 412 trường ĐH,CĐ tính bình quân mỗi tỉnh, thành phố có
khoảng 6,6 trường ĐH,CĐ; cả nước có khoảng 2,2 triệu sinh viên trong tổng dân số
95 triệu dân, cao hơn cả các quốc gia phát triển. Đây là một trong những nguyên
nhân khiến số lượng cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp ngày càng tăng. Tính đến 3 tháng
đầu năm 2016 đã có 225.000 thạc sĩ, cử nhân thất nghiệp.
Một trong những điểm đáng chú ý là tình trạng dư thừa trong khối ngành kinh tế, thừa
nhưng vẫn thiếu vì doanh nghiệp chỉ cần nhân lực có trình độ cao.
Kết quả khảo sát của Viện Nhân lực ngân hàng - tài chính cho thấy trong hai năm
2012 và 2013 có 30.000 - 32.000 SV ngành tài chính - ngân hàng ra trường, nhưng
chỉ khoảng một nửa trong số đó được nhận vào làm việc trong các ngân hàng.
Ngành kế toán cũng vướng vào thực trạng thừa nhân lực nên SV ra trường thất
nghiệp ngày càng tăng. Báo cáo 6 tháng đầu năm 2014 của VietnamWorks cho thấy
thị trường nhân lực VN tăng trưởng 23% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, nguồn
cung nhân lực ngành kế toán tăng 69% so với cùng kỳ. Tỷ lệ cạnh tranh trong ngành
này vô cùng khắc nghiệt, trung bình cứ một hồ sơ nộp vào vị trí ngành kế toán sẽ phải
cạnh tranh với 98 hồ sơ khác.
Trong bối cảnh cạnh tranh việc làm khốc liệt như vậy, yếu tố đầu tiên được xét đến
chính là bằng cấp, bảng điểm. Các doanh nghiệp hiện nay ưa chuộng tuyển dụng nhân
lực thật sự chất lượng, vì thế sẽ có một bộ phận sinh viên có bằng khá hay trung bình
sẽ mất đi cơ hội việc làm. Chưa kể đến, một số doanh nghiệp lựa chọn thuê người
nước ngoài để đảm nhận những chức vụ quan trọng như quản trị rủi ro, quản lý, đầu
tư.


Vậy câu hỏi đặt ra là hơn 50% sinh viên tốt nghiệp với bằng khá và trung bình sẽ làm
gì?
PGS.TS Bùi Đức Triệu, Trưởng phòng Đào tạo Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
nhận định, có tới 70-80% sinh viên ra trường học chuyên ngành Kinh tế làm lẫn việc
của nhau. Khác với ngành Kỹ thuật, sinh viên học Quản trị Kinh doanh có thể làm
được Kế Toán và ngược lại, bởi họ có nền tảng kiến thức tương đương.

Điều này cho thấy không chỉ sinh viên bằng khá và trung bình mà mọi sinh viên đều
đứng trước nguy cơ phải làm trái ngành. Hiện nay, có khá nhiều người làm trái ngành,
nghê, và phần lớn ở lĩnh vực kinh tế.Trong đó, một số trường hợp do chọn nhầm
ngành nghề mình không yêu thích, không phù hợp. Số còn lại vì họ đã cụ thể hoá công
việc mình làm dựa trên những kiến thức tổng hợp được học.
“Các ngành kinh tế nói chung thường học khá nhiều kiến thức, từ marketing, quản trị,
kinh tế vi mô, luật đến kỹ năng bán hàng, kỹ năng giao tiếp… Khi ra trường, tùy theo
hoàn cảnh mà cá nhân có thể chọn một ngành cụ thể để theo đuổi. Đây không phải
chọn nhầm nghề”, một cựu sinh viên KTQD cho biết.
Tuy nhiên trong đó, cũng có một bộ phận không nhỏ phải đổi hoàn toàn sang làm
nghề khác,cử nhân đi làm công nhân là thực trạng không còn hiếm. Có những khu
công nghiệp có tới hàng nghìn công nhân là sinh viên đã tốt nghiệp đại học.
Nguyên nhân
Nguyên nhân bên ngoài:
-

-

Chương trình học vẫn mang nặng tính lý thuyết và có rất nhiều môn học không
còn thích hợp nữa, bởi thế sinh viên phải học những thứ họ cảm giác vô bổ,
không giúp ích họ khi ra làm thực tế.
Phương pháp dạy học vẫn lấy người thầy làm trung tâm mà nhẽ ra phải là
người trò làm trung tâm, không kích thích được tính sáng tạo của sinh viên.
Cơ sở vật chất còn thiếu thốn nhiều, không tạo ra môi trường học tập năng
động cho sinh viên, những hoạt động ngoại khóa còn mang tính phong trào,
không thực sự thu hút sự quan tâm của sinh viên.

Nguyên nhân bên trong:
-

-

Không có phương pháp học tập phù hợp: Ở bậc THPT, học sinh thường được
thầy cô dẫn dắt nhiều hơn nhưng học đại học thì khác. Vì số lượng sinh viên
đông nên các thầy cô không thể quan tâm đến từng người. Đồng thời học đại
học theo phương pháp tín chỉ, phương pháp này đòi hỏi sinh viên phải tự học là
chủ yếu. Điều này khiến cho nhiều sinh viên không tìm ra được phương pháp
học tập phù hợp, dần dần mất phương hướng và có tâm lý chán nản, học không
vào, thậm chí là mặc kệ đến đâu thì đến.
Mải mê lao vào những thú vui: Khá nhiều sinh viên thường chỉ học khi kỳ thi
gần kề còn trong quá trình học thì chỉ mải mê vui chơi và không chịu học tập.
Chính môi trường mới với nhiều trò vui chơi giải trí đã kéo một học sinh chăm


-

-

chỉ, học giỏi thành một sinh viên lười biếng với kết quả học tập… không thể tệ
hơn.
Mạng xã hội phát triển: Sống trong thời đại truyền thông, Facebook, Twitter,
Tumblr… dường như đã “ngốn” hết thời gian của bạn. Sáng ngủ dậy vào
Facebook, đi chơi check in Facebook, chụp ảnh up Facebook, viết status một
ngày chục cái đăng Facebook, trước khi học phải vào Facebook cập nhật thông
tin và ngồi vẩn vơ đến tận khi đi ngủ.
Bận rộn kiếm tiền: Nhiều sinh viên gia đình khó khăn nên đã lựa chọn cách đi
làm thêm để đỡ gánh nặng cho bố mẹ. Vì vậy nên thời gian học sẽ hạn hẹp.
Mặt khác đi làm thêm mệt mỏi nên khả năng tập trung học hành cũng bị giảm
sút. Bên cạnh đó, một số bộ phận gia đình có điều kiện nhưng muốn đi làm
thêm để tiếp thu kinh nghiệm hay vì tiêu xài quá đà nên nợ chồng nợ chất,

“khủng hoảng vì tiền” dẫn tới phân tâm, lo lắng.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những hậu quả kể trên, nhưng phải nói đến một
nguyên chính là: “Sinh viên vì muốn trang trải thêm cho cuộc sống, đi làm thêm
quá nhiều nên không cân đối được thời gian học tập.” Đây là nguyên nhân mặc dù
dẫn đến nhiều hệ quả xấu, nhưng trong đó, vẫn chứa khá nhiều mặt tích cực về những
nỗ lực của sinh viên
Để giải quyết tình trạngtrên, nhà trường đã đề ra quyết định cấp học bổng khuyến
khích đối với sinh viên hệ chính quy nhằm giúp đỡ các sinh viên có điều kiện sinh
hoạt, học tập, giảm thời gian đi làm, giảm gánh nặng từ phía gia đình, khuyến khích
sinh viên học tập đạt được kết quả tốt.
2. Cây vấn đề



3.

Thách thức và cơ hội của chính sách:
Thách thức:
- Chính sách mà nhà trường đưa ra phải đứng trước rất nhiều thách thức
- Nhà trường phải xây dựng đội ngũ cán bộ theo dõi, tổng hợp cũng như
sắp xếp thống kê kết quả học tập của sinh viên
- Xã hội ngày càng phát triển, nên chính sách cũng cần có được giá trị học
bổng phù hợp xứng đáng với kết quả học tập, nỗ lực của sinh viên cũng
như mức sống trung bình của họ.
- Quỹ học bổng khuyến khích học tập của trường Đại học Kinh tế quốc
dân bằng 15% nguồn thu học phí hệ chính quy dài hạn nên nếu chi phí
cho mức sống của toàn xã hội tăng lên thì đồng thời để học bổng có giá
trị đúng với những gì mà Sinh viên cố gắng bỏ ra thì học phí cũng phải
tăng lên

- Nhưng chính sách này cũng cần bổ sung vì hiện nay có khá nhiều
sinh viên chỉ chăm chú vào học để lấy học bổng. Nhưng học phải đi đôi
với hành nên để xét duyệt học bổng cho sinh viên một cách toàn diện
hơn thì nhà trường nên không chỉ đánh giá trên phương diện học tập mà
nên dựa trên cả phương diện hoạt động ngoại khoá của sinh viên đó.
Cơ hội:
- Chính sách này đã thực sự mở ra động lực cho sinh viên để sinh viên cố
gắng học tập đạt kết quả cao, thúc đẩy sự phát triển đi lên của Trường nói
riêng và nền kinh tế cả nước nói chung.
- Đây cũng là một chính sách để thu hút sinh viên vào trường Đại học
Kinh tế Quốc dân và tạo dựng cho sinh viên một phong cách học nghiêm
túc, cụ thể ngay từ khi đăt chân vào cánh cổng đại học, tránh tình trạng
sinh viên không có hứng thú với học tập

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Phân tích việc thực hiện các tiêu chuẩn thực hành tốt GPP tại các nhà thuốc trên địa bàn tỉnh Kiên G Y dược 0
R Phân tích mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức thông qua một vài ví dụ cụ thể Văn hóa, Xã hội 0
D Phân tích hoạt động của các nhà thuốc đạt tiêu chuẩn thực hành tốt nhà thuốc - GPP trên địa bàn Thàn Y dược 0
D Phân tích việc thực hiện tiêu chuẩn thực hành tốt nhà thuốc GPP của các nhà thuốc tại thành phố hồ c Y dược 0
D Nêu, phân tích những ví dụ cụ thể gắn với vấn đề phân loại hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật Luận văn Luật 4
T Phân tích hoạt động của các nhà thuốc đạt tiêu chuẩn thực hành tốt nhà thuốc GPP trên địa bàn Thành Y dược 3
H Phân tích các nhân tố cơ bản tạo nên tính ưu việt của tiêu chuẩn Truyền hình số mặt đất thế hệ thứ h Công nghệ thông tin 0
T Phân tích định lượng bằng phương pháp đường chuẩn Khoa học kỹ thuật 0
O Phân tích tình hình áp dụng hệ thống Quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 tại Tổng công Tài liệu chưa phân loại 0
J Phân tích các tiêu chuẩn đánh giá lực lượng bán hàng và xác định tiêu chuẩn kiểm soát đánh giá quan Tài liệu chưa phân loại 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top