Download miễn phí Tiểu luận Cái đẹp trong văn hóa ăn của người Hà Nội





Trước thế kỷ XI, Hà Nội đã là một thành thị có tầm cỡ. Từ thế kỷ XI trở đi, sau khi Lý Thái Tổ chọn làm thủ đô và đặt tên là Thăng Long thì thành phố này trở nên đầu não chính trị, trung tâm văn hoá của cả nước. Là kẻ chợ của cả nước, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội từ lâu đã là nơi “ bốn phương hội tụ”. Tính chất hội tụ, một đặc điểm của văn hoá Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, khiến cho văn hoá ở đây trong một chừng mực nhất định thay mặt được cho văn hoá Việt Nam nói chung. Văn hoá Trung Quốc, văn hoá Ấn Độ, văn hoá phương Tây, đặc biệt là văn hoá Pháp đã ảnh hưỏng không nhỏ vào văn hoá nước ta và ảnh hưởng ấy thể hiện trước hết và nhiều nhất ở thủ đô. Các đặc điểm trên đây tức là sự hội tụ văn hoá của cả nước và sự giao lưu văn hoá với nước ngoài thể hiện trong văn hoá vật chất và tinh thần của thủ đô trong đó có nghệ thuật nấu ăn.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ỉnh thể thống nhất của văn hoá ứng xử. Nói đến cái đẹp trong văn hoá ứng xử nói chung và văn hoá ăn nói riêng tức là mỗi chúng ta phải luôn luôn tu dưỡng để hoàn chỉnh mình cả về nội dung và hình thức.
Nhà nghiên cứu J.A.Cômexki nói: “ Một con người có hình thức đẹp mà không có văn hoá thì chỉ là con vẹt có bộ lông hào nhoáng hay như người ta nói- một lưỡi kiếm bằng chì trong vỏ kiếm bằng vàng”. Sêchspia- nhà viết kịch lỗi lạc người Anh đã có câu tổng kết: “Mỗi cử chỉ của chúng ta đều biết nói, cơ thể con người là tấm gương phản chiếu rất thật những suy nghĩ và tình cảm của con người”.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và vơí tự nhiên, là mục tiêu của chúng ta. Mỗi người chúng ta sống tốt, sống đẹp, sống có văn hoá, hòa thuận, tử tế, yêu thương, nhân ái với nhau nâng cao lên là văn hoá ứng xử. Vậy cái đẹp trong văn hoá ứng xử nói chung và văn hoá ăn nói riêng được hiểu như thế nào?
Cái đẹp là một trong bốn phạm trù mỹ học cơ bản tạo nên hệ thống khách thể thẩm mỹ trong đó cái đẹp là đại diện. Là một phạm trù quan trọng bởi vì nó là phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học. Mỹ học là một khoa học nghiên cứu toàn bộ cái thẩm mỹ. Cái thẩm mỹ gồm năm phạm trù cơ bản: phạm trù cái đẹp, phạm trù cái xấu, phạm trù cái bi, phạm trù cái hài, phạm trù cái trác biệt. Nhưng cái đẹp là phạm trù thay mặt thẩm mỹ còn những phạm trù khác là một hình thức tồn tại của cái đẹp. Mỹ học còn là một khoa học nghiên cứu cái đẹp, mỹ học là khoa học nghiên cứu toàn bộ đời sống thẩm mỹ gồm đời sống vật chất và tinh thần trong đó gồm có khách thể thẩm mỹ ( năm phạm trù) và chủ thể thẩm mỹ con người đặc biệt là người nghệ sỹ sáng tạo ra cái đẹp.
Cái đẹp còn là một giá trị mang tính thời sự: tức là chỉ đẹp ở một thời điểm nhất định. Ví dụ như những mốt quần áo ở một thời điểm này thì được coi là đẹp là mốt nhưng đến mấy năm sau nó đã bị coi là lạc hậu rồi. Bên cạnh đó cái đẹp còn có giá trị vĩnh cửu: nghĩa là nó tồn tại mãi mãi, muôn đời.
Cái đẹp có hai hệ tiêu chí để đánh giá chân thiện mỹ và tính nhân dân, dân tộc, nhân loại. Trong đó chân là giá trị sử dụng, thiện là giá trị nhân đạo, mỹ-giá trị thẩm mỹ. Tính nhân dân cái đẹp lưu truyền trong nhân dân bảo lưu đến ngày nay. Dân tộc bản chất truyền thống con người Việt Nam, nhân loại-kế thừa phát huy tinh hoa văn hoá nhân loại.
Những phẩm chất của đẹp: hài hoà, cân đối, mực thước, tỉ lệ, số lượng, chất lượng và sự tiến bộ. Chẳng hạn như văn hoá mặc, nghệ thuật thiết kế thời trang đã đưa con người đi xa hơn vào thế giới của cái đẹp. Có câu: “ ăn cho mình mặc cho người”. Người có văn hoá là người hiểu biết thẩm mỹ, biết chọn màu sắc, kiểu dáng phù hợp với vóc dáng, nước da, tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế và bối cảnh chung quanh, vùa mắt ta, ưa mắt người, ăn mặc giản dị, quan tâm đến hoà sắc, không cầu kỳ kiểu cách. Có thể đánh gía được phần nào con người qua cách ăn mặc. Người xưa đã từng nói: “y phục xứng kỳ đức” (nhìn trang phục biết tư cách đạo đức).
Các hình thức tồn tại của cái đẹp: tự nhiên, xã hội- con người, nghệ thuật. Cái đẹp trong tự nhiên do chính tự nhiên tạo ra, con người không nắm được tự nhiên. Cái đẹp trong tự nhiên không chọn lọc, khô nhám, mộc mạc nhưng nó là nguồn cảm xúc cho các nghệ sỹ tạo nên các tác phẩm thi ca, nhạc, họa. Ví dụ như xúc cảm trước biển, xúc cảm trước mùa thu. Cái đẹp trong nghệ thuật là tổng hoà cái đẹp trong tự nhiên và xã hội. Là sự chắt lọc tài năng, tâm huyết và trí tuệ con người nghệ sỹ. Biểu hiện bằng tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là đơn vị nghệ thuật mà trong đó hình tượng là yếu tố quan trọng. Là sự chắt lọc, là đứa con tinh thần của các văn nghệ sỹ trên 7 loại hình nghệ thuật. Cái đẹp trong xã hội biểu hiện qua phong tục, tập quán lễ nghi mà tóm lại là văn hoá ứng xử.
Văn hoá là từ Hán, một trong những người đầu tiên quan tâm đến khái niệm này là triết gia Lưu Hướng (thời Tây Hán). Theo ông, văn hoá nghĩa là lấy cái đẹp để giáo hoá con người. Đến thời hiện nay, nhiều khoa học mới ra đời như: nhân loại học, xã hội học, dân tộc học, tâm lý học…nên khái niệm văn hoá thay đổi bởi nội hàm quá rộng lớn. Đã xuất hiện nhiều định nghĩa khác theo cách tiếp cận khác nhau. Văn hoá là phi tự nhiên, là đặc trưng người, là nhân hoá, văn hoá là trình độ người( Unessco). Văn hoá là chất lượng cuộc sống: “ Văn hoá là cái gì còn lại sau khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta học tất cả”(E.Henriotte).
Ứng xử là từ ghép gồm ứng và xử. ứng là ứng đối, ứng đáp, ứng phó, ứng biến…Xử là xử thế, xử lý, xử sự, hành xử…ứng xử là phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Người Việt Nam ứng xử duy tình( nặng về tình cảm): “ một trăm cái lý không bằng một tý cái tình”, “ chín bỏ làm mười” ... Đó là đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp, lua nước, làng nghề,thôn dã. Họ trọng tình họ hàng, anh em, tình làng nghĩa xóm, nhà nọ sát cạnh nhà kia, đời đời, kiếp kiếp bên nhau mà không hề để điều tiếng qua lại: “ bán anh em xa mua láng giềng gần”, “ nước xa không cứu được lửa gần”. Tư duy người Việt nghĩ bằng bụng, dạ, lòng: “ tui nóng tui nói thế nhưng bụng dạ chẳng có gì đâu”.
Văn hoá ứng xử là: “Thế ứng xử, là sự thể hiện triết lý sống, các lối sống, lối suy nghĩ, lối hành động của một cộng đồng người trong việc ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, từ vi mô (gia đình) đến vĩ mô (nhân gian).
Bản chất của văn hoá ứng xử gồm có hai chữ tâm và nhẫn.
Chữ Tâm có gốc từ chữ Hán- chữ tượng hình (vừa có hình vừa có nghĩa) hình quả tim (một vầng trăng khuyết ba sao trên trời). Chữ Tâm tượng hình nguyên nghĩa là “ tâm phòng” đó chính là nơi cư trú của hoạt động tinh thần của con người. Tâm còn mang ý nghĩa là lương tâm, đức độ, tấm lòng, lòng bao dung, nhân ái, độ lượng, vị tha, thương người như thể thương thân. Tâm còn được biểu hiện ở sự cảm thông, chia sẻ những rủi ro, bất hạnh của người khác, luôn mong người khác thành đạt hơn mình. Tâm là tâm tín, tâm can, tâm tư, tâm khảm. Là toàn tâm, toàn ý cho công việc, sự nghiệp, lý tưởng của mình. Trong từ điển tiếng Việt, tâm có nghĩa là tình cảm, ý chí. Tâm là đạo đức, tâm đẹp là đạo đức tốt, còn gọi là tâm thanh tịnh trong sạch. Tâm thanh tịnh là ba không: Tham, sân, si. Ba có là: bi, trí, dũng. Khổng Tử khuyên một người quân tử cần học để sửa mình để giữ gìn cái tâm. Tâm được xếp vào “ phạm trù luân lý đạo đức” mà tiêu chuẩn cơ bản nhất là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Chữ Nhẫn là sự n...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top