Download miễn phí Bush: Tự do hoá thương mại: “là con đường duy nhất nếu quốc gia đang phát triển muốn thoát khỏi cùng kiệt đói. Khi các quốc gia bị tách biệt khỏi thế giới người dân phải trả giá quá đắt. Những người phê phán tự do thương mại là kết án người cùng kiệt vĩnh viễn ng

Đề Bài
Bush: Tự do hoá thương mại: “là con đường duy nhất nếu quốc gia đang phát triển muốn thoát khỏi cùng kiệt đói. Khi các quốc gia bị tách biệt khỏi thế giới người dân phải trả giá quá đắt. Những người phê phán tự do thương mại là kết án người cùng kiệt vĩnh viễn cùng kiệt đói”.
Hãy đánh giá tác động của tự do hoá thương mại tới tăng trưởng và cùng kiệt đói ở Việt Nam.


Bài làm.

I. Khái niệm về tự do hoá thương mại

Tự do hoá thương mại là một thuật ngữ chung chỉ sự dỡ bỏ dần dần hay hoàn toàn các hàng rào hiện tại đối với thương mại hàng hoá và dịch vụ và trong một số trường hợp cả với đầu tư. Kết quả của việc này thường được nhắc đến là thương mại tự do và mang lại khối lượng lớn hơn cho tất cả các nước tham gia vào các hoạt động này.

II. Làn sóng tự do hoá thương mại hiện nay ở các nước đang phát triển

Từ cuối thập kỷ 80, làn sóng tự do hoá thương mại đã được lan rộng trên phạm vi toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Sự chuyển hướng trong chính sách thương mại ở nhóm nước này theo hướng tự do hoá là kết quả của sự tác động tương hỗ giữa các nguyên nhân bên trong và bên ngoài, hay nói cách khác những nguyên nhân chủ quan và khách quan là khác nhau.
1. Thương mại là một trong những điều kiện cần thiết để các nước đang phát triển phát triển kinh tế
Trong nhiều thập kỷ qua, các nước đang phát triển đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế. Do đó đời sống nhân dân các nước này đã được nâng lên rõ rệt, tuy chưa đồng đều. Có những nước phát triển nhanh như một số nước Đông và Đông Nam Á, Mỹ La-tinh, một số nước xuất khẩu dầu lửa, nhưng nhiều nước khác vẫn chưa thoát ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp. Sự phát triển nhanh ở các nước nói trên một phần là do có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng chủ yếu là do họ có một chế độ thương mại tương đối mở cửa hơn - kết quả của quá trình cải cách thương mại và kinh tế tích cực trong suốt nhiều năm.
Trong thế giới đang phát triển, một số nước đã tiến hành cải cách thương mại theo hướng tự do hoá hơn ngay từ thập kỷ 60 như Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Indonesia, Chilê, Colombia, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư... Đa số các nước này đã tiến hành tự do hoá thương mại trong điều kiện nền kinh tế trong nước bị khủng hoảng. Riêng các nước Đông Nam Á là những nước may mắn được lựa chọn đi theo hướng tự do hóa, bởi vì lúc đó điều kiện trong nước và quốc tế đều rất thuận lợi. Chính điều kiện ổn định kinh tế, chính trị vĩ mô là một trong các yếu tố giúp họ thành công trong các chương trình cải cách thương mại. Nhờ đó, thương mại của họ đã rất phát triển và là cội nguồn của quá trình tăng trưởng cao kéo dài nhiều thập kỷ (bảng 1).

Thương Mại Tăng Trưởng cùng kiệt Đói
Khu vực/Nước Tăng trưởng trung bình của xuất khẩu hàng hoá (khối lượng) 1980 – 1994 Tăng trưởng trung bình của GDP trên đầu người 1970 – 1995 Tỷ lệ dân số sống với thu nhập dưới 1 USD/ngày (tính ngang giá sức mua, các năm khác nhau)
Các nền kinh tế Đông Á
Trung Quốc
Hồng Kông
Inđonexia
Hàn Quốc
Malayxia
Philippin
Singapore
Thái Lan
Trung Bình

12,2
15,4
9,9
11,9
13,3
5,0
13,3
16,4
12,2

6,9
5,7
4,7
10,0
4,0
0,6
5,7
5,2
5,4

29,4 (1993)
< 1
4,5 (1993)
< 1
5,6 (1989)
27,5 (1988)
< 1
< 1

Các nền kinh tế Mỹ La-tinh
Achentina
Bolivia
Braxin
Chilê
Mexico
Peru
Urugoay
Venezuela
Trung Bình

1,9
- 0,3
6,2
7,3
13,0
2,4
0,9
1,1
4,0

- 0,4
- 0,7
...
0,8
0,9
- 1,1
- 0,2
- 1,1
- 0,1

...
7,1 (1990)
28,7 (1989)
15,0 (1992)
14,9 (1995)
49,4 (1994)
...
11,8 (1991)

Nguồn: WB (1998), Annual World Bank Conference on Development in Latin America and Caribbean 1997 “Trade: Towards Open Regionalism”, Washington D.C,p.31.
Thành tích trong phát triển kinh tế của các nước Châu Á đã hấp dẫn các nước đang phát triển còn lại, giúp họ có thêm sức mạnh để tiến bước trên con đường tự do hoá thượng mại của mình . Hơn thế nữa, sự phát triển của thương mại thế giới đòi hỏi các nước này phải có chế độ thương mại tự do hơn để sao cho tranh thủ được tối đa các cơ hội phát triển mà thương mại mang lại. Hay nói cách khác, có nhiều yếu tố đang tồn tại trong quá trình phát triển của thương mại thế giới đã làm cho thương mại tự do không những hấp dẫn, mà còn là cần thiết đối với các nước đang phát triển để phát triển. Đó là:
Thứ nhất, trong suốt nhiều thập kỷ qua, khối lượng trao đổi mậu dịch giữa các nước trên thế giới không ngừng tăng lên. Nó lớn gấp 15 lần so với thời điểm sau đại chiến thế giới lần thứ hai. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của nó luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng sản lượng thế giới, thậm chí trong thập kỷ vừa qua nó còn gấp đôi. Điều đặc biệt hơn là, trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu 90, tốc độ tăng trưởng của nhóm các nước đang phát triển, tuy vẫn mang tính không đều giữa các khu vực. Sự phát triển này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết nhiều vấn đề khác của kinh tế vĩ mô như việc làm, mức sống v.v...
Thứ hai, sự thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế cũng là một yếu tố thúc đẩy làn sóng tự do hoá thương mại ở các nước đang phát triển. Tuy buôn bán hàng hoá vẫn chiếm phần chủ yếu, nhưng vai trò của buôn bán dịch vụ trong thương mại quốc tế đang dần tăng lên. Nó đã trở thành một lĩnh vực không thể thiếu trong các cuộc đàm phán về tự do hoá của các tổ chức thương mại quốc tế.
Yêu cầu đối với các nước đang phát triển trong việc tiến hành tự do hoá thương mại dịch vụ được bắt nguồn từ đặc điểm đặc trưng của dịch vụ (tức là sản xuất và tiêu dùng cùng đồng thời xảy ra theo không gian và thời gian) và nhu cầu phát triển của nền kinh tế hiện đại. Trên quy mô toàn cầu, các nước xuất khẩu dịch vụ nhiều thường là các nước phát triển và một số NIC, còn đại bộ phận các nước khác đều có nhu cầu nhập khẩu chúng. Trong điều kiện có nhiều hạn chế quốc gia từ phía các nước nhập khẩu, việc tiến hành tháo giỡ chúng dần dần là một nhu cầu cần thiết và trước mắt. Bên cạnh đó, sự phát triển hiện nay của khoa học và công nghệ đòi hỏi các nước muốn phát triển thì phải tham gia tích cực vào lĩnh vực trao đổi dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ viễn thông. Nhờ trao đổi này, trong một thời gian ngắn, ngành viễn thông của nhiều nước đang phát triển đã trở thành khu vực tăng trưởng nhanh nhất như ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Malayxia.

Bảng 2: Tỷ trọng của mậu dịch hàng hoá trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) về hàng hoá (%).
Tên nước hay nhóm nước 1986 1996 1997
Nhóm các nước thu nhập thấp và trung bình 46,1 76,8 79,6
Đông Á và Thái Bình Dương 48,1 127,3 89,9
Châu Âu và Trung Á 57,2 79,7 89
Mỹ La-tinh và Caribê 40,6 61,7 66,3
Trung Đông và Bắc Phi 52,1 78,4 72,0
Nam Á 22,1 39,2 39,6
Châu Phi Tiểu Sahara 70,3 102,5 94,4
Nhóm các nước thu nhập cao 70,4 178,8 78,7
Số liệu về một số nước đang phát triển riêng lẻ
Achentina 23,1 44,0 33,8
Brasil 26,0 24,9 28,9
Cămpuchia 4,3 95,2 86,8
Hồng Kông 513,0 1227,0 ...
Cộng hoà Công-Gô 162,4 323,1 51,0
Ethiopia 32,7 41,2 ...
Ghana 44,6 126,6 118,4
Honduras 80,1 234,7 238,2
Indonexia 55,0 69,7 75,9
Jamaica 146,3 299,3 330,2
Malayxia 163,5 269,0 271,4
Mexico 51,2 143,8 144,8
Panama 119,1 1069,3 254,4
Philippin 57,4 98,8 190,7
Singapore 697,4 763,6 753,9
Thái Lan 85,8 138,2 153,2

Nguồn:
- WB (1998), World Development Indicators 1998, p.310 – 312.
- WB (1999), World Development Indicators !999, P.324 -328
Thứ ba, sự phát triển nền kinh tế của các nước đang phát triển ngày càng phụ thuộc vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Trong hơn một thập kỷ gần đây, tất cả các nước đều có xu hướng muốn liên kết sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với hy vọng nắm bắt được những cơ hội để phát triển kinh tế. Hay nói cách khác, vai trò của quan hệ kinh tế đối ngoại đối với sự phát triển kinh tế ngày càng trở nên quan trọng. Điều này có thể chứng minh bằng giá trị xuất khẩu hàng hóa so với tổng sản phẩm về quốc nội về hàng hoá. Theo số liệu ở bảng 2, xuất khẩu hàng hoá của tất cả các nước trên thế giới, đều có xu hướng tăng lên. Đáng tiếc là sự gia tăng này lại không động đều, đặc biệt ở nhóm các nước đang phát triển. Có những nước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa so với GDP hàng hoá năm 1996 đã tăng so với năm 1986 gấp 20 lần như cămpuchia, 9 lần như panama. Có một vài nước khác, thì chỉ gấp 2 hay 3 lần như Jamaica, Honduras, Ghana, Mexico và cộng hoà Công gô. Thế nhưng, cũng có những nước mà mức tăng không đáng kể như Brasil, Ethiopia, Achentina. Cũng cần ghi nhận rằng sự gia tăng này càng lớn có nghĩa là sự phát triển kinh tế của các nước sẽ càng phụ thuộc nhiều hơn vào sự thăng trầm của nền kinh tế thế giới.

trong GDP chỉ khoảng 17,7%) và trong thời gian qua đã chú trọng đến phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu so với đẩy mạnh xuất khẩu ( thể hiện sự gia tăng thâm hụt trong cán cân thương mại).
Việc chú trọng hơn đến các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu, từ kinh nghiệm của các nước ASEAN, đã dẫn đến thực trạng rằng mức độ bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ của nước ta không thể là thấp. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng nền kinh tế Việt Nam đang được bảo hộ rất mạnh (xét cả về mức bảo hộ danh nghĩa, lẫn hiệu quả), mức bảo hộ lại phân tán giữa các ngành, từ đó tạo nên những méo mó rất lớn trong phân bổ các nguồn lực.Trong điều kiện đó, một chế độ thương mại tự do hơn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Một chế độ tự do thương mại hơn không chỉ tác động tích cực lên việc phân bổ các nguồn lực trong nước, mà còn làm tăng tác động của lượng FDI thu hút được lên tăng trưởng năng suất toàn bộ các yếu tố và xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Đây là mối quan hệ thuận chiều, tức là tác động lên tăng trưởng kinh tế của FDI sẽ tăng lên khi có một chế độ thương mại mở của hơn. Trong báo cáo phát triển thế giới năm 1994 của ngân hàng đã chỉ rõ rằng trong các nước đang phát triển có chế độ thương mại tương đối khép kín, tác động của FDI lên tăng trưởng năng suất toàn bộ các yếu tố không những yếu hơn, mà thậm chí đôi khi còn mang tính tiêu cực. Cũng theo kết quả nghiên cứu của công trình này, nếu lượng FDI được đổ vào các nước đang phát triển với chế độ thương mại mở cửa hơn, sẽ có tác động mạnh hơn lên tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao trong tổng xuất khẩu của họ.
Tự do hoá thương mại thường bị trì hoãn bởi sự e sợ rằng nó sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới nguồn thu ngân sách và góp phần vào sự bất ổn định kinh tế vĩ mô. Trên thực tế, tác động của tự do hoá thương mại tới nguồn thu là không rõ ràng và phụ thuộc vào các cải cách được thực hiện.
2. Tác động của tự do hoá thương mại tới cùng kiệt đói
Cho dù được định nghĩa như thế nào thì cùng kiệt đói cũng không phải là kết quả trực tiếp của thương mại quốc tế. Đúng hơn, đói cùng kiệt phản ánh thu nhập thấp, ít tài sản, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực công cộng, sức khoẻ và giáo dục thấp, không có quyền lực, và dễ bị tổn thương. Điều quan trọng không phải là cái gì gây ra những vấn đề này chừng nào chúng còn tồn tại, cũng như làm gì có thể giải quyết được chúng nếu những yếu tố đó có thể được giải quyết. Chính sách thương mại chỉ quan trọng trong chừng mực (a) nó ảnh hưởng đến những yếu tố trực tiếp quyết định đói nghèo, (b) cùng với toàn bộ chính sách có thể có khác, chính sách thương mại đưa ra một công cụ chính sách hiệu quả cho việc giảm đói cùng kiệt (càng đói cùng kiệt thì càng mất nhiều cơ hội).
Tự do hoá thương mại có thể gây ra những hậu quả có hại đối với một số người – bao gồm cả một số người cùng kiệt - điều này cần tránh hay cải thiện càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, tự do hoá thương mại sẽ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đến lượt mình, tăng trưởng kinh tế sẽ hỗ trợ giảm cùng kiệt đói. Thông qua quá trình tự do hoá thương mại, nước ta đã có quan hệ ngoại thương với nhiều nước trên thế giới, và áp dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng trung bình kim ngạch xuất khẩu trong suốt thập kỷ 90 đạt khoảng 20%/năm, làm cho tổng kim ngạch ngoại thương gia tăng đáng kể - trước đây chỉ bằng 20% GDP nay đã tăng lên bằng 80% GDP, điều này dẫn đến sự gia tăng thu nhập của người lao động. Bên cạnh đó thông qua quá trình tự do hoá thương mại Việt Nam đã thu hút được sự đầu tư của nước ngoài điều này đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách, tạo ra gần nửa triệu chỗ làm việc mới và hàng ngàn chỗ làm việc trong các ngành có liên quan.
Việc can thiệp vào thương mại nhìn chung là không hiệu quả và lãng phí, sự không hiệu quả chủ yếu là do hiệu ứng tái phân phối. Điều đó có nghĩa, nói chung những thiệt hại ròng do sự can thiệp thể hiện ở việc có những tác động tích cực to lớn cho một số người và hộ gia đình và những ảnh hưởng tiêu cực lớn đối với những người khác. Tương tự như vậy, mặc dù việc dỡ bỏ hết can thiệp thương mại nói chung sẽ củng cố thu nhập, nhưng điều này có khả năng tạo ra cả người được lẫn kẻ mất. Ví dụ, tự do hoá lĩnh vực nhập khẩu sẽ tái phân phối thu nhập thực tế của nhà sản xuất sang cho người tiêu dùng do mức giá giảm xuống, cũng như giữa các yếu tố sản xuất theo hướng một số yếu tố được lợi trong khi những yếu tố khác lại bị thiệt dưới mức trung bình.

MỤC LỤC

Trang

I. Khái niệm về tự do hoá thương mại 1
II. Làn sóng tự do hoá thương mại hiện nay ở các nước đang phát triển
1
1. Thương mại là một trong những điều kiện cần thiết để các nước đang phát triển phát triển kinh tế
1
2. Toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành xu thế của nền kinh tế thế giới, trong đó tự do hoá thương mại là một mũi nhọn
6
3. Sự thất bại của cơ chế kế hoạch hoá tập trung 11
4. Những thay đổi trong ưu thế cạnh tranh dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ
13
III. Tác động của tự do hóa thương mại đến tăng trưởng và cùng kiệt đói 14
1. Tác động của tự do hoá thương mại đến tăng trưởng 14
2. Tác động của tự do hoá thương mại tới cùng kiệt đói 17

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top