kedasau208

New Member
Download Tiểu luận Trình bày quan điểm của lý thuyết lựa chọn hợp lý về tôn giáo

Download miễn phí Tiểu luận Trình bày quan điểm của lý thuyết lựa chọn hợp lý về tôn giáo





Lýthuy ếtlựachọnhợplýnàydựa khánhiềuvàonguyên tắccủalý
thuy ếttrao đổi: sựtương táccủacon ngườicóthể đượccoi nhưlàmột hình
thứctrao đổi. Từ đótiếpcận đểgiảithíchvềsựnổilên vàpháttriểncủacác
giáopháivàsựsùngbáitôn giáo Trong một lýthuy ếtcủatôn giáo, Stark và
Bainbridge tiếptụcpháttriểnlýthuy ếtnòngcốttrong nhiềucáchkhácnhau,
bao gồmnguồngốccủacácvịthầntrong tínngưỡngvàtinh thần; sựnổilên
củacác phápsưvàcáctổchứctôn giáo. Đây lànhữngnguồntừmột lýthuy ết
chung củacơcấuxãhội vàvăn hoá. Tấtcảnhữngchi tiết này đángra không
được đềcập đến ở đây nhưng đơn giảnvìtrong quátrìnhpháttriểncủacơcấu
xãhộivàvăn hoá, cụthểchuyên ngànhvăn hoánổilên vàpháttriểnthành hệ
thốngvăn hoá, một trong số đólàcóliên quan vớitôn giáo. Tương tự, khi các
xãhội đạtmột kíchthướcnhất định, mức độphứctạp, thìcáctổchứcxãhội
nổilên, bao gồmcáctổchứctôn giáo.



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

1Đề bài :
Trình bày quan điểm của lý thuyết lựa chọn hợp lý về tôn giáo.
1. Chủ thuyết lựa chọn hợp lý.
- Thuyết lựa chọn hợp lý (hay còn gọi là thuyết lựa chọn duy lý) trong
xã hội học có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học và nhân học vào thế kỷ VIII,
XIX. Một số nhà triết học đã cho rằng bản chất con người là vị kỷ, luôn tìm
đến sự hài long, sự thoả mãn và lảng tránh nỗi khổ đau. Một số nhà kinh tế
học cổ điển thì từng nhấn mạnh vai trò động lực cơ bản của động cơ kinh tế,
lợi nhuận khi con người phải đưa ra quyết định lựa chọn hành động. Đặc trưng
thứ nhất có tính chất xuất phát điểm của sự lựa chọn duy lý chính là các cá
nhân lựa chọn hành động.
Thuyết này gắn với tên tuổi của rất nhiều nhà xã hội học tiêu biểu như:
George Homans, Peter Blau, James Coleman…
- Thuyết lựa chọn hợp lý dựa vào tiên đề cho rằng con người luôn hành
động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực
một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu.
Thuật ngữ “lựa chọn” được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính
toán để quyết định sử dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu trong số
những điều kiện hay cách thức hiện có để đạt được mục tiêu trong điều kiện
khan hiếm các nguồn lực. Phạm vi của mục đích đây không chỉ có yếu tố vật
chất (lãi, lợi nhuận, thu nhập) mà còn có cả yếu tố lợi ích xã hội và tinh thần.
- Định đề này được Homans diễn đạt theo kiểu định lý toán học như
sau: khi lựa chọn trong số các cách hành động có thể có, cá nhân sẽ chọn cách
nào mà họ đánh giá là tích của xác suất thành công của hành động đó với giá trị mà
phần thưởng của hành động đó là lớn nhất. Tức là Homans đã nhấn mạnh đến
đặc trưng thứ hai của sự lựa chọn hợp lý là quá trình tối ưu hoá.
2- Tương tự như vậy thì J. Elster lại phát biểu nội dung của thuyết này
bằng câu nói đơn giản “Khi đối diện với một số cách hành động, mọi người
thường làm cái mà họ tin là có khả năng đạt được kết quả cuối cùng tốt nhất”.
- G. Simmel nêu ra nguyên tắc “cùng có lợi” của mối tương tác xã hội
giữa các cá nhân và cho rằng mỗi cá nhân luôn phải cân nhắc, toan tính thiệt
hơn để theo đuổi mục đích cá nhân, để thoả mãn các nhu cầu cá nhân. Simmel
cho rằng mọi mối tương tác giữa người với người đều dựa vào cơ chế cho-
nhận tức là trao đổi những thứ ngang giá nhau. Như vậy, xã hội được hiểu là
mạng lưới các quan hệ trao đổi giữa các cá nhân.
- Tuy vậy sự duy lý hợp lý này là có giới hạn, tương đối, tức là “duy lý
trong bọc”.
- Trên thực tế, thuyết lựa chọn hợp lý với các biến thể của nó chủ yếu
được triển khai trên nhiều cấp độ từ hành động xã hội của cá nhân đến chức
năng của hệ thống xã hội và mối tương tác giữa cá nhân, nhóm, thiết chế và hệ
thống xã hội. Nhờ vậy, đối với câu hỏi cơ bản của xã hội học: cái gì tạo nên sự
trật tự xã hội? Các tác giả của thuyết này đã đưa ra câu trả lời khá rõ ràng: đó
là sự lựa chọn hợp lý, sự trao đổi xã hội có khả năng tạo dựng và duy trì ổn
định, trật tự xã hội.
- Trong những năm gần đây, thuyết lựa chọn hợp lý đã thu hút được
nhiều sự quan tâm nghiên cứu đến mức mà nhà xã hội học Neil Smelser ghi
nhận rằng đó là một chủ đề trọng tâm không những của những nhà lý luận xã
hội học mà còn của các khoa học xã hội khác trong thập niên cuối của thế kỷ
XX.
- Chủ thuyết lựa chọn duy lý hợp lý gồm có hai nhánh (hay chính xác là
hai biến thể) là lý thuyết trao đổi xã hội và lý thuyết lựa chọn hợp lý. Hai
nhánh lý thuyết này về nội dung cơ bản là giống nhau như trên. Chỉ khác nhau
ở chỗ là lý thuyết trao đổi xã hội thì nhấn mạnh đến quá trình trao đổi những
vật ngang giá giữa các cá nhân trong xã hội, với nguyên tắc hai bên cùng có
3lợi; còn thuyết lựa chọn hợp lý lại nhấn mạnh đến sự lựa chọn các phương
tiện, cách thức hành động để đạt được lợi ích tối đa với chi phí tối thiểu.
2. Chủ thuyết lựa chọn hợp lý trong tôn giáo.
2.1. Thuyết trao đổi trong tôn giáo.
- Nội dung của lý thuyết trao đổi có thể tóm tắt trong một số định đề cơ
bản như sau:
+ Con người không phải là một thực thể thuần tuý lý tính; ngược
lại, họ thường xuyên tính toán chi phí-lời lãi trong sự thương lượng hằng ngày
với đồng loại.
+ Con người không nắm được những thông tin chắc chắn về tất
cả các phương án có thể có do hành động xã hội có thể mang lại cho họ; họ
chỉ biết đến vài cái, nhưng đủ để bảo đảm cho họ một sự kiểm soát tối thiểu về
sự phân phối chi phí và lời lãi sơ đẳng.
+ Con người luôn luôn hành động vì bắt buộc, đấu tranh với
những đồng loại của họ để giành những lợi thế trong một quá trình thương
lượng với nhau.
Những liên hệ trao đổi được mô tả ở trên không chỉ có giá trị đối với thị
trường kinh tế mà đối với tất cả những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội.
Hơn nữa, những liên hệ ấy còn có nghĩa là con người để theo đuổi
những mục tiêu của mình, phải huy động và trao đổi không chỉ những của cải
vật chất, mà cả những nguồn tượng trưng (tình cảm, ý tưởng, giao tiếp không
bằng lời…).
- Thuyết trao đổi trong tôn giáo:
+ Hình thức trao đổi xã hội-tôn giáo đầu tiên: là hệ thống trao đổi
“kula-ring” của những người dân các đảo Triobrands qua nghiên cứu của
Malinowski.
4“Kula-ring” thực chất là một hệ thống trao đổi vòng tròn về những đồ
vật (vòng tay làm từ những vỏ màu trắng và vòng cổ làm từ vỏ màu đỏ). Hai
lần mỗi năm, người dân trên đảo Trobriand khởi động xuồng của mình và ghé
thăm các hòn đảo khác, mang theo quà tặng và đặc sản địa phương để thực
hiện trao đổi. Người dân ở các đảo khác nhau của quần đảo này đã tiến hành
trao đổi theo những hướng ngược nhau (vòng tay theo một hướng nào đó,
vòng cổ theo một hướng ngược lại, theo lối chu kỳ). Theo hướng kula, vòng
tay được trao đổi với vòng cổ theo hướng ngược lại. Nói riêng giữa các cá
nhân ta luôn thấy một sự trao đổi vòng tay để lấy vòng cổ. Kula không có giá
trị tiền tệ và không thể được chuyển đổi thành hàng tiêu dùng, nó chỉ được
dùng để trưng bày và thể hiện uy tín. Ngoài ra, vật có giá trị Kula được xếp
hạng theo giá trị và tuổi tác và vì vậy là những mối quan hệ xã hội được tạo ra
thông qua những trao đổi đó. Tức là hệ thống trao đổi vòng tròn kula cũng
mang tính chính trị. Nó cung cấp tình trạng nội bộ dành cho nam giới, và tăng
cường sự ổn định chính trị, kinh doanh giữa các hòn đảo kula bằng việc tăng
cường hòa bình.
Như vậy hệ thống trao đổi kula-ring đã giúp liên kết mọi người lại với
nhau, đây chính là một hình thức trao đổi-tôn giáo.
Marcel Mauss, môn đồ của E. Durkheim, khi tiếp thu có phê phán
những quan điểm của Malinowski, đã nêu rõ rằng sự trao đổi dựa vào ý niệm
trao tặng mà không hề bao hàm một lợi ích kinh tế. Theo Mauss, điều quan
5trọng là trao đổi tặng phẩm t...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top