Download Tiểu luận Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam miễn phí





MỤC LỤC
Đặt vấn đề .
Nội dung .
Chương 1:Nguồn gốc Phật giáo và những quan điểm của triết học Phật giáo.
I.Nguồn gốc của Phật giáo
1.Bối cảnh Ấn Độ thời đức Phật .
2.Đức Phật Thích Ca Mâu Ni .
II.Những quan điểm của triết học Phật giáo .
1.Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
2.Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan .
Chương II:Anhr hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam
I.Qúa trình hình thành và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam: .
II.Những đặc điểm của Phật giáo ở Việt Nam:
1.Tính tổng hợp .
2.Xu hướng hài hòa âm dương có phần thiên về nữ tính
3.Tính hài hòa .
III.Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần người Việt Nam:
1.Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng .
2.Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt đạo lý
3.Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt phong tục tập quán .
4.Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vự văn hóa nghệ thuật
Kết luận
Tài liệu tham khảo .
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ự tồn tại của vật chất chỉ là tạm thời, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có cái gọi là “Tôi”.
- Vô thường: tức là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trinh bất tận: sinh- trụ- dị- diệt. Vậy thì có có, không không luân hồi bất tận, có đó rồi lại không, cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
Đức Phật dạy:” Cái gì có trong thế gian là biến đổi, hư hại, là vô thường. vì vậy, vô thường nghĩa là không thường, không ở mãi trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, từ hình thành đến biến đổi đến tan rã. Vô thường là phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, bài trừ sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục. Nó chưa phải là thuyết tuyệt đối. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật từ tâm đến hoàng cảnh. Hiểu lí vô thường, con người dễ giữ được bình tỉnh, thản nhiên trước cảnh đổi thay bất thường.
Duyên: tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ, từ những cái vô cùng nhỏ đến những cái vô cùng lớn đều không thoát khỏi sự chi phối của nhân duyên: cái nhân(hetu) nhờ có cái duyên(prattiya) mới sinh ra mà thành quả(phla). Qủa lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành ra quả mới… Cứ thế, nối tiếp nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật. muôn loài cứ sinh sinh hóa hóa mãi theo quy luật nhân quả. Nhân là cái mầm; quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả la hai trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa vào nhau. Không có nhân không thể có quả, không có thì không thể có nhân. Nhân nào quả ấy.
Con người do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bới hai thành phần: thể xác và tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp tan của Ngũ Uẩn. Hai thành phần tạo nên Ngũ Uẩn, do nhân duyên hợp thành. Mỗi con người cụ thể có danh sắc(nâma-suna), Duyên hợp Ngũ Uẩn thì là ta, duyên tan Ngũ Uẩn thì không còn ta, là diệt.Nhưng không phải là mất đi mà trở lại với ngũ uẩn.Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn biến hóa theo quy luât nhân quả không ngừng.
Cho nên,con người cứ biến hóa,vụt mất,vụt còn,không có sự vật riêng biệt tồn tại mãi mãi,không có cái tui thượng đỉnh.Cái tui hôm qua không còn là cái tui hôm nay nữa.Vì không nhận thực được cái gọi là biến ảo(Maya),vô thường,vô định của vạn vật mới là thường hằng và chân thực;không nhận thức được rằng: “cai tôi” có mà không,không mà có,nên người ta lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi,cái gì cũng thường định, cái gì cũng là của ta,là ta,do ta nên con người cứ khát ái,tham dục,hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn dục vọng đó,tạo những kết quả,gây nghiệp báo(Karma),mắc vào bể khổ triền miên không dứt(Sam-sara).
Đã mắc vào sự chi phối của quy luật nhân duyên là chụi nghiệp báo và kiếp luân hồi.Đó là cách lý giải căn nguyên của nổi khổ của con người Phật giáo.
2.Quan điểm của Phật Giáo về nhân sinh quan:
a.Quan điểm của Phật Giáo về nghiệp:
Nghiệp có nghĩa là hành động hay việc làm.Tư tưởng, lời nói hay việc làm thường có ý muốn làm động cơ khởi xướng.Phật giáo gọi ya muốn hay ý chí ấy là tác ý.
Nghiệp báo là một định luật nhân quả trong lĩnh vực luân lý hay như người Phương Tây gọi là “ảnh của hành động”
Có vài ý kiến cho rằng thuyết nghiệp báo là loại xoa dịu, ru ngủ những con người xấu số.Nhưng đức Phật không hề dạy thế,thuyết nghiệp báo trong đức Phật cũng không bao giờ chấp nhận một cuộc sống phán sử sau kiếp sống.Theo lý nghiệp báo,chúng ta không nhất thiết bị trói buộc trong một hoàn cảnh nào vì nghiệp báo không phải là số mệnh cũng không phải là tiền định do một ma lực huyền bí đã định đoạt cho ta một cách bất khả kháng.Chúng ta có đủ năng lực để chuyển phần nào cái nghiệp của chúng ta theo ý muốn.
b.Quan điểm của Phật Giáo về “Tứ diệu đế”:
Nội dung của triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện trong thuyết“Tứ diệu đế”mà Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại.Thông điệp“Tứ diệu đế”gồm hai mặt:Nhận thức và hành động.Đó là bốn chân lý huyền diệu,chắc chắn, hiển nhiên,bao gồm:
- Khổ đế(Dukkha):Là chân lý về bản chất của nỗi khổ.Theo đạo Phật,thực tại nhân sinh là khổ ải;ngoài nỗi khổ do sinh,lão,bệnh,tử gây nên cho con người còn có nỗi khổ vì không ưa mà hợp là khổ,ưa mà phải lìa là khổ,mong không được cũng khổ,được cũng khổ mà mất cũng khổ.Đời là bể khổ.
- Tập đế(Samarudays):Là chân lý về nguyên nhan của nỗi khổ.Con người trong thế giới hiện thực này khổ là vì đâu?Nguyên nhân trực tiếp là do con người có lòng tham,sân,siCon người muốn còn mãi nhưng thực tại cứ biến dịch và thay đổi,muốn trường tồ nhưng thực tại luôn biến hóa trong vòng sinh,lão,bệnh,tử;không có cái gì thực là ta,của ta.Do đó đã tạo nên cho con người những nỗi khổ triền miên cho con người trong cuộc đời.Để giải thích cho căn nguyên ấy,đức Phật đã nêu ra thuyết “Thập nhị nhân duyên”gồm: Vô minh (avidya),Hành (Samskara),Thức(Vijnâna),Danh sắc(nâmarupa)Lục căn(Sandagatana),Xúc(Sparacs),Thụ(vecsdana),Ái(Trisna),Thủ(Upadana),Hữu(bhava),Sinh(Jatri),Lão tử(jana-marana).
- Diệt đế(Nirodha):Là chân lý diệt khổ.Nổi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây ra khổ bị loại từ.Lần theo thập nhị nhân duyên,tìm ra cội nguồn của nỗi khổ và ái dục,dứt bỏ từ ngọn nguồn cho đến gốc mọi nguồn gốc đau khổ đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng,luân hồi,đạt đến cảnh trí Niết bàn(Nirvana).Đó là thế giới lý tưởng của sự giác ngộ và giải thoát.Trạng thái Niết bàn,Thường trụ,Chính quả không thể lý giải được mà là tự mình giác ngộ.Mục đích của Phật tử là thực hiện Niết bàn, khi đang tu dưỡng là thực hiện Niết bàn từng phần, khi giác ngộ rồi là thực hiện được Niết bàn toàn phần,trở thành Phật.
- Đạo đế(Marga):là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ,nói về những con đường,cách thức để con người đạt đến trạng thái Niết bàn.Con đường diệt khổ,giải thoát và giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức,rèn luyện tư tưởng và khai sáng trí tuệ.Ba môn học này được cụ thể hóa trong khái niệm“Bát chánh đạo”(tám con đường chân chính),đó là;
+ Chính kiến(samyak-dristi):hiểu biết đúng đắn,kiến giải chính xác.
+ Chính tư duy(samyak-samkalpa):suy nghĩ đúng đắn.
+ Chính nghiệp(samyak-karmata):hành động chân chính,thực hện ngũ giới(không sát sinh,không trộm cắp,không tà dâm,không uống rượu,không nói dối)
+ Chính ngữ(samyak-vaca):lời nói chân chính,trung thực.
+ Chính mệnh(samyak-samadhi):kiên định,tập trung vào con đường chân chính,không để bất cứ điều gì làm lay chuyển,phân tâm.
Trong tám nẻo đường này thì chính kiến,chính tư duy thuộc về trí tuệ(panna);chính ngữ,chính nghiệp,chính mệnh thuộc về Định(samadhi).
Đạo Phật còn đề ra những phương pháp trên con đường thực hành tu nghiệp là: “Ngũ giới” và“Lục độ”(sáu phép tu)…Trong những giai đoạn đầu với vũ trụ quan nhân duyên,đạo Phật đã có những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát.Về chính trị xã hội thì đạo Phật là tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top