phu0ngthj3ugj4

New Member

Download Tiểu luận Pháp luật hiện hành về hình thức vốn góp, định giá vốn góp và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty miễn phí





MỤC LỤC
 
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HÌNH THỨC VỐN GÓP, ĐỊNH GIÁ VỐN GÓP VÀ CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN GÓP VỐN VÀO CÔNG TY 2
1. Pháp luật hiện hành về hình thức vốn góp 2
2. Định giá vốn góp 6
a)cách định giá. 6
b)Ý nghĩa của việc định giá. 8
3. Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty 8
II. HƯỚNG HOÀN THIỆN 13
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HÌNH THỨC VỐN GÓP, ĐỊNH GIÁ VỐN GÓP VÀ CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN GÓP VỐN VÀO CÔNG TY 2
1. Pháp luật hiện hành về hình thức vốn góp 2
2. Định giá vốn góp 6
a)cách định giá. 6
b)Ý nghĩa của việc định giá. 8
3. Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty 8
II. HƯỚNG HOÀN THIỆN 13
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang trong quá trình hiện đại hóa đất nước, đưa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được chủ trương đó chúng ta đã nố lực hết mình, và cũng đã đạt được những thành quả nhất định. Bên cạnh đó thì các công ty đã đóng góp một phần công sức không nhỏ trong những thành quả đó. Một công ty để được thành lập và hoạt động cần có tài sản và các tài sản đó một phân là vốn góp được tạo dựng bởi các cổ đông, thành viên của công ty đóng góp. Vậy pháp luật hiện hành quy định gì về hình thức vốn góp, định giá vốn góp và chuyển quyền sở hữu vốn góp như thế nào? Sau đây em xin được làm rõ hơn các vấn đề trên.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HÌNH THỨC VỐN GÓP, ĐỊNH GIÁ VỐN GÓP VÀ CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN GÓP VỐN VÀO CÔNG TY
Pháp luật hiện hành về hình thức vốn góp
Theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 quy định: “ Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”
Ở đây tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản được giải thích như sau:
Vật: phải là một bộ phận của thế giới vật chất (tồn tại một cách hữu hiệu, phải có lợi ích cho công ty và phải đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh cũng như các hoạt động khác của công ty. Trong quá trình hoạt động, các vật này có thể tham gia giao dịch. Công ty có thể chiếm hữu, sử dụng và định đoạt được vật đó nhằm phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Vật được chia thành bất động sản và động sản.
Tiền: tiền là giá trị thay mặt cho giá trị thực của hoàng hóa và là phương tiện lưu thông trong giao lưu dân sự. Tiền giữ một vai trò quan trọng và được coi là một tài sản quý trong xã hội.
Giấy tờ có giá trị bằng tiền: không phải mội giấy tờ giá trị đều được coi là tài sản mà phải là những giấy tờ giá trị được bằng tiền, đáp ứng được yêu cầu có thể trở thành đối tượng của các giao dịch dân sự và khi góp vốn vẫn còn trong thời hạn được lưu thông. Giấy tờ trị giá được bằng tiền phải có một mệnh giá nhất định như: cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, công trái, séc, thông phiếu…
Các quyền tài sản: đây là các quyền gắn liền với tài sản và khi thực hiện các quyền đó, lợi ích vật chất sẽ phát sinh đối với chủ sở hữu đối với các sáng chế… Các quyền này có thể định giá được và do vậy có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự.
Khoản 4 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 20005 quy định: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hay các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp vốn để tạo thành vố của công ty”.
Theo quy định này thì hình thức góp vốn vào công ty có thể là được thực hiện dưới với hình thức là góp tài sản, các tài sản đó được thể hiện dưới những dạng sau:
Tiền Việt Nam;
Ngoại tệ tự do chuyển đổi;
Vàng;
Giá trị quyền sử dụng đất;
Giá trị quyền sở hữu trí tuệ;
Công nghệ, bí quyết kỹ thuật;
Các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp vốn để tạo thành vốn của công ty.
Khoản 3 Điều 4 Luật doanh nghiệp được xây dựng theo phương pháp liệt kê. Với phương pháp này làm cho nội dung điều luật thiếu tính khái quát, không thể hiện được sự đầy đủ, trọn vẹn những trường hợp pháp luật dự liệu. Bên cạnh đó, phương pháp này còn được tạo nên sự rườm ra về mặt hình thức, câu chữ. Từ đó, khiến cho không ít người đọc hiểu sau tinh thần của điều luật – họ cho rằng ngoài tài sản mà điều luật đã liệt kê, các thỏa thuận những tài sản khác là đối tượng của hành vi góp vốn theo ý chí của nhà đầu tư chứ không phải theo pháp luật.
Một điểm nữa là chúng ta có thể đặt ra vấn đề rằng: mọi phần vốn góp của công ty là tài sản, nhưng ngược lại mọi tài sản đều có thể trở thành vốn góp được không. Phải chăng luật doanh nghiệp có “quá thoáng” khi quy định cho các thành viên công ty được thỏa thuận với nhau tài sản nào sẽ là đối tượng của việc góp vốn? Các thành viên công ty có thể thỏa thuận góp vào công ty những tài sản như: năng lực kinh doanh, uy tín trên thương trường, danh sách khách hàng… có được không? Theo pháp luật hiện hành thì điều này hoàn toàn được cho phép nếu là thành viên công ty đã thỏa thuận là tài sản và được ghi vào Điều lệ công ty.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy được sự mâu thuẫn chồng chéo trong Luật doanh nghiệp và BLDS trong khái niệm về tài sản góp vốn. những hạn chế và bất cập của một định nghĩa mang tính chất liệt kê. Không chỉ mâu thuẫn với BLDS định nghĩa về tài sản góp vốn của Luật doanh nghiệp còn nảy sinh một số vấn đề liên quan đến Luật sở hữu trí tuệ, khoản 4 Điều 4 Luật doanh nghiệp chỉ liệt kê các loại tài sản… Như vậy, Luật doanh nghiệp có đề cập tới giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ và bí quyết kỹ thuật. Trong khi Luật sở hữu trí tuệ 2005 đã đưa ra hệ thống cá đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp rất rõ ràng bao gồm: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế, bố trí mạch kín hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
Tuy nhiên tại NĐ 102/2010/NĐ-CP Điều 5 quy định về góp vốn bằng sở hữu trí tuệ : “Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn. Bộ Tài chính hướng dẫn việc định giá góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ”. Vậy, từ cách quy định trên có thể thấy được pháp luật đã chú ý đến các quyền tài sản để góp vốn vào công ty và đây cũng là một hình thức góp vốn vào công ty.
Đây là những quy định của pháp luật đối với hình thức góp vốn vào công ty đối với những chủ thể là cá nhân, tổ chức Việt Nam không bị cấm trong khoản 2 Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005.
Đối với những tổ chức cá nhân nước ngoài thì hình thức góp vốn vào công ty được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị quyết của Thủ tướng chính phủ số 99/2009/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam:
“Góp vốn:
a) Nhà đầu tư nước ngoài m...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top