huyhoang3129

New Member
Download Tiểu luận Nhận xét, đánh giá những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và nêu hướng hoàn thiện các quy định trên

Download miễn phí Tiểu luận Nhận xét, đánh giá những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và nêu hướng hoàn thiện các quy định trên





Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định: “Tạm giam có thể được áp dụng với bị can, bị cáo.”. Tuy nhiên, trên thực tế còn có những đối tượng khác cũng có thể áp dụng biện pháp tạm giam như:
- Người bị Tòa án kết án phạt tù trước đó đang bị tạm giam nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết ;
- Người bị Tòa án kết án phạt tù trước đó không bị tạm giam nhưng xét thấy cần tạm giam họ để đảm bảo thi hành án ;
- Người bị kết án phạt tù đang tại ngoại chờ thi hành án hay đang thi hành án bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã .
Các đối tượng nêu trên cùng có chung đặc điểm là người đã bị Tòa án kết án phạt tù vì thế không còn tiếp tục gọi họ là bị can, bị cáo. Việc khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định không đầy đủ các đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giam dẫn đến mâu thuẫn giữa các quy định của Điều 88 và các điều luật khác, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
Để khắc phục tình trạng này, quy định tại Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 nên bổ sung về đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giam ngoài bị can, bị cáo còn có “người đã bị Tòa án kết án phạt tù” đồng thời bổ sung quy định về mục đích áp dụng biện pháp tạm giam tại điểm b Khoản 1 Điều 88 bao gồm cả mục đích đảm bảo việc thi hành án, cụ thể ở đoạn “.có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội” nên đổi thành “.có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn, hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hay có thể tiếp tục phạm tội”.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

, khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hay trả tự do cho người bị tạm giữ.
- Đảm bảo cho tiến trình tố tụng được tiến hành thuận lợi, giải quyết các vụ án được khách quan, toàn diện, góp phần hiệu quả vào việc bảo đảm tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.
2. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
a. Khái niệm
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hay phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng , phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ 2 năm mà có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.224
.
b. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giam
- Mục đích: Ngăn chặn không để cho bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hay có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
- Ý nghĩa: Tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân.
+ Tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa; là biện pháp thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm; bảo đảm cho xã hội ổn định, trật tự, pháp luật được giữ vững, chế độ XHCN được bảo vệ; quyền lợi hợp pháp của công dân được tôn trọng; bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
+ Tạm giam là phương tiện hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Biện pháp này bảo đảm bí mật điều tra, ngăn ngừa thông cung giữa những người vi phạm với nhau, ngăn ngừa tội phạm xóa bỏ dấu vết. Bảo đảm cho bản án khi Tòa án tuyên được thi hành nghiêm chỉnh khi chúng có hiệu lực pháp luật.
+ Tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm tôn trọng các quyền công dân được Hiến pháp và luật ghi nhận. Đảm bảo không một công dân nào có thể bị tạm giam khi không có căn cứ và trái pháp luật.
+ Tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước ta: là biện pháp bảo đảm cho mọi người dân được sống trong một xã hội an toàn, các quyền và lợi ích của mỗi người dân được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định đảm bảo cho mọi người dân được an tâm sinh sống, học tập và làm việc.
II. Nhận xét, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện các quy định nêu trên
1. Biện pháp tạm giữ
a. Đối tượng, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ
Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định: “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hay đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.”
Theo đó, biện pháp tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn mà mục đích của biện pháp ngăn chặn là “để kịp thời ngăn chặn tội phạm hay có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay tiếp tục phạm tội cũng như khi cần thi hành án”.
Việc quy định đối tượng tạm giữ bao gồm cả người phạm tội tự thú, đầu thú là không phù hợp. Vì việc người phạm tội ra đầu thú, tự thú chứng tỏ sự hối cải và ý thức hợp tác của họ, không có cơ sở để cho rằng họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay tiếp tục phạm tội cũng như khi cần đảm bảo thi hành án. Nên chỉ cần quy định áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người phạm tội đầu thú, tự thú phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng nhưng có nhân thân xấu, không có nơi cư trú ổn định còn những trường hợp khác thì không cần thiết và chỉ cần áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm không đi khỏi nơi cư trú.
Như vậy, khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 nên quy định: “Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hay đối với người bị bắt theo quyết định truy nã tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này hay những người phạm tội đầu thú, tự thú phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng nhưng có nhân thân xấu, không có nơi cư trú ổn định.
b. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại Khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”.
Dẫn chiếu sang Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định:
“Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp;
b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng và hải đảo biên giới;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng”.
Điều luật này đã có sự bổ sung so với Điều 68 BLTTHS 1988, đó là người có quyền ra lệnh tạm giam còn gồm cả chỉ huy trưởng vùng Cảnh sảt biển Quy định này không những tăng thẩm quyền cho lực lượng tuần tra biển để kịp thời phục vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm trên biển mà qua đó góp phần kiểm soát, tuần tra và giữ vững an ninh trật tự trên biển.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS 2003 thì Cơ quan hải quan, Kiểm lâm không có quyền tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự. Thực hiện quy định theo quy định tại Khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003 khi bắt người phạm tội quả tang thì các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền. Mặt khác, tại điểm a Khoản 1 Điểm 111 BLTTHS 2003 có quy định cơ quan Hải quan, Kiểm lâm có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch phạm tội rõ ràng trong lĩnh vực quản lý của mình. Tuy có thẩm quyền khởi tố, điều tra nhưng việc không quy định thẩm quyền tạm giữ của cơ quan Hải quan, Kiểm lâm sẽ gây khó khăn cho các cơ quan đó trong việc thực thi thẩm quyền này (Ví dụ: hoạt động hỏi cung bị can).
Điều 86 cần quy định bổ sung người có quyền ra quyết định tạm giữ bao gôm cả thủ trưởng cơ quan Hải quan, thhủ trưởng cơ quan Kiểm lâm để các cơ quan có điều kiện hoàn thành tốt chức năng của mình.
c. Thời hạn tạm giữ
điều 87 BLTTHS 2003 quy định về thời hạn này như sau:
“1. Thời hạn tạm giữ không được quá 3 ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận n...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Tiểu luận QUY TRÌNH GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT KHẨU BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG Luận văn Kinh tế 0
T Nhận làm luận văn, nhận làm báo cáo thực tập, nhận làm tiểu luận, đồ án tốt nghiệp, luận án... Thị trường, Mua bán 0
G Tiểu luận: QUYỀN NĂNG NHẬN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Tài liệu chưa phân loại 0
E Tiểu luận: các hình thức sở hữu trong bộ luật dân sự năm 2005, nhận xét và kiến nghị. Tài liệu chưa phân loại 0
A Tiểu luận: Nhận xét sự thay đổi về thẩm quyền ban hành VBQPPL theo quy định của Luật ban hành VBQPPL Tài liệu chưa phân loại 0
M Tiểu luận: Vấn đề ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng Tài liệu chưa phân loại 0
T Tiểu luận: Indicator - Nhận biết mức độ độc Tài liệu chưa phân loại 0
C Tiểu luận: Nhận dạng các loại rủi ro trong đầu tư tài chính và chứng khoán. Tài liệu chưa phân loại 0
M Tiểu luận: Vai trò của gia đình trong việc nhận thức và thực hiện bình đẳng giới hiện nay ở Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 0
T Tiểu luận: Lý luận nhận thức, vận dụng quan điểm đó vào nền kinh tế Việt Nam trước và sau 10 năm đổi Văn hóa, Xã hội 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top